Đánh giá Honda Air Blade 2011
Khách hàng quyết định mua Air Blade hay không sẽ tùy thuộc vào đánh giá thiết kế bởi đặc tính kỹ thuật gần như không thay đổi so với đời 2010.
Air Blade đời 2011 được Honda coi là thế hệ thứ năm tại Việt Nam, kể từ ra mắt năm 2007. Chưa một sản phẩm nào có thể duy trì tình trạng khan hiếm suốt 4 năm như Air Blade. Giá bán thực tế tại đại lý ủy quyền Head bao giờ cũng cao hơn giá đề xuất của nhà máy.
Sự ưa chuộng đặc biệt của khách hàng Việt Nam với Air Blade khiến Honda khu vực đặt hàng riêng bộ phận Honda R&D Thái Lan thiết kế một phiên bản dành riêng, dựa trên những điều tra về thị hiếu.
Các thị trường như Thái Lan hay Indonesia thích tính thể thao, hầm hố trên xe tay ga thì Việt Nam lại ưa vẻ cao cấp và lịch sự. Chính vì thế, Honda tập trung thiết kế phần mũi xe pha trộn giữa phong cách của dòng cruiser như PCX với môtô thể thao.
Air Blade 2011 với vóc dáng bề thế, đầm hơn.
Cụm đèn pha được tập trung với kiểu đèn đôi, sử dụng bóng Halogen để có thể “nhìn đèn là nhận ra Air Blade 2011”. Tương ứng với sự mở rộng của phần đầu xe là cụm đèn hậu “bành” sang hai bên, không gọn và sắc như đời cũ.
Sự thay đổi của Air Blade theo xu hướng bề thế gây nên hai luồng đánh giá. Có ý kiến nuối tiếc vẻ thon gọn của đời cũ. Nhưng số khác cho rằng xe hiện đại hơn, nổi bật và “sang” hơn.
Ngoài sự thay đổi, Air Blade có cải tiến như chỉ còn một hộc đựng đồ dưới tay lái nhưng rộng, sâu và vừa tầm tay hơn. Chìa khóa tích hợp tính năng tìm xe trong bãi, ưu điểm quan trọng mỗi khi phải gửi xe ở bãi đông. Bên cạnh ổ khóa có một đèn nhỏ soi sáng cho ban đêm.
Thiết kế bảng đồng hồ cũng khác, theo hình viên kim cương với cách bố trí kim chỉ tốc độ nổi bật, rõ ràng hơn. Hai đèn báo xi-nhan ăn hẳn ra ngoài.
Các kích thước của Air Blade 2011 giữ nguyên với chiều dài tổng thể 1.890 mm, rộng 680 mm và cao 1.110 mm. Chiều cao yên nâng thêm 3 mm, lên 772 mm nên vừa tầm với những người tầm vóc trung bình. Khoảng cách gầm 133 mm, tăng thêm 3 mm, không đáng kể. Vành xe vẫn là loại loại 14 inch lắp lốp 80/90 bánh trước và 90/90 bánh sau.
Cụm đồng hồ thiết kế mới.
Động cơ dung tích thực 108 phân khối, công suất 9 mã lực tại vòng tua 8.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 9,5 Nm ở vòng tua 6.000 vòng/phút. Truyền động dây đai.
Ngồi lên Air Blade 2011, cảm giác khác hẳn đời cũ. Phần đầu to lên, ôm trọn tầm nhìn phía trước nên dễ có cảm giác xe đầm hơn. Thực tế, trọng lượng vẫn giữ nguyên ở mức 110 kg.
Air Blade vẫn có nhược điểm ở tốc độ dưới 30 km/h hơi gằn và rung. Tăng tốc lên cao hơn, độ bốc và lướt không khác đời cũ. Vặn chút ga, xe đã đạt 80 km/h dễ dàng. Mỗi khi qua ổ gà, tiếng “cộc” của hệ thống giảm xóc vẫn xuất hiện.
Không phải mọi xe và mọi chỗ đều phát ra mà chỉ ở nơi có độ chênh lớn và gấp. Có thể không gây phiền về kỹ thuật nhưng khi cầm lái, rõ ràng người điều khiển không thoải mái lắm với âm thanh này.
Sự mở rộng của chỗ để chân và yếm trước cho cảm giác chắc chắn và ổn định giống như ngồi trên PCX125. Nhưng không có tính gọn gàng, linh hoạt để vọt ga cho “thoát” như đời trước.
Với động cơ giữ nguyên, Air Blade mới sẽ có mức tiêu hao nhiên liệu tốt, một yếu tố giúp nó được ưa chuộng. Nhận được những phản ánh khác nhau nhưng Air Blade 2011 vẫn đang gây sốt khi giá bán ở mức 40 triệu đồng, tại các đại lý lớn Hà Nội và TP HCM, cao hơn mức 36 triệu và 37 triệu đồng như Honda Việt Nam đề xuất.
Doanh số Air Blade tại Việt Nam cũng là “mơ ước” của nhiều thị trường với lượng cộng dồn 950.000 xe, kể từ 2007. Đây cũng là mẫu xe chủ yếu để Honda mở rộng nhà máy sản xuất xe ga lên 1 triệu chiếc mỗi năm.
Trọng Nghiệp