[PDF]Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân quốc ngữ thi tập: các hình thức diễn đạt về sự ẩn dật.pdf
Xem mẫu
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(73) năm 2015 ____________________________________________________________________________________________________________
NGUYỄN BÌNH KHIÊM VỚI BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP: CÁC HÌNH THỨC DIỄN ĐẠT VỀ SỰ ẨN DẬT
LÊ VĂN TẤN*
TÓM TẮT
“Bạch Vân quốc ngữ thi tập” là tập thơ chữ Nôm được Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác chủ yếu trong thời gian ở ẩn tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay thuộc Vĩnh Bảo -thành phố Hải Phòng). Khác với các nhà nho ẩn dật khác trước và sau ông, con đường trở về với không gian ẩn này với Nguyễn Bỉnh Khiêm khá nhẹ nhàng, thanh thản. Ông đã lựa chọn được một cách ứng xử với thời cuộc rất độc đáo, có một không hai. Từ điểm nhìn không gian Trung Am, thi nhân đã diễn đạt thành công các hình thức ẩn của mình trong tập thơ. Đây là nội dung chính được chúng tôi triển khai trong bài báo của mình.
Từ khóa: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bạch Vân quốc ngữ thi tập, thơ Nôm Đường luật, ẩn dật, làng Trung Am.
ASTRACT
Nguyen Binh Khiem with “Bach Van’s Nom poem anthology”: forms of seclusion Bach Van’s Nom poem anthology composed of Nom poems by Nguyen Binh Khiem
during his time living secludedly in Trung Am village, Vinh Lai province (now Vinh Bao province, Hai Phong). Unlike other secluded poets, Nguyen Binh Khiem chose an easy, gentle secluded life. He chose a unique attitude to life. In this anthology, the author had successfully used forms of seclusion. This is the main issue presented in this article.
Keywords: Nguyen Binh Khiem, Bach Van’s Nom poem anthology, Poetry Nom Duong law, secluded life, Trung Am village.
1. Không gian làng Trung Am: nơi Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm ôm ấp lí bắt đầu và mãi mãi tưởng “trí quân trạch dân”, “tiên ưu hậu Nguyễn Bỉnh Khiêm quê ở làng lạc” của nhà nho song ông lại khá thận
Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Ông
sinh năm 1491, thời điểm nhà Lê phát
trọng quan sát thế cuộc để lựa chọn thời điểm hành đạo thích hợp nhất. Bỏ qua
nhiều kì thi, đến năm 1535, khi đã ở tuổi
triển cực thịnh, và mất năm 1585, khi nhà 45 ông mới ứng thí và đậu Trạng
Mạc đã chiếm cứ phần lớn Bắc Bộ. Bức tranh xã hội Việt Nam đương thời khá rối ren khi các tập đoàn phong kiến phân tranh, giành đoạt quyền lợi lẫn nhau, đời sống của nhân dân một số nơi rơi vào
cảnh nghèo đói, li tán.
Nguyên, sau đó làm quan cho nhà Mạc -triều đại vẫn từng bị coi là “ngụy triều” lúc bấy giờ. Sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tình huống này, ở một phương diện nào đó có thể “bất đắc dĩ”
nhưng hẳn là với một nhận thức rất tiến
Là môn đệ của cửa Khổng sân bộ, linh hoạt của mình, ông đã nhìn thấy
* TS, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Email: [email protected]
58
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Văn Tấn ____________________________________________________________________________________________________________
được những mặt tốt đẹp của vương triều mới. Ít nhất đó là cơ hội để một người như ông có thể hiện thực hóa mơ ước, lí tưởng của mình từng ôm ấp bấy lâu (thời
gian không cho phép ông nấn ná thêm
vào chính sự. Các phe phái, tập đoàn phong kiến thường qua lại xin ý kiến của ông. Điều đó chứng tỏ ở ông uy vọng lớn mà không phải nho gia nào cũng có được,
và ở một góc độ nào đó có thể thấy cách
được nữa!). Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hi hành đạo rất riêng của Nguyễn Bỉnh
vọng, ít nhất là triều Mạc có thể mang
đến một sự đổi thay nhất định nào đó, để
Khiêm. Việc ông khuyên họ Mạc nên
trấn thủ đất Cao Bằng, họ Nguyễn vào
có thể đưa đất nước ra khỏi tình trạng rối giữ Thuận Hóa, họ Trịnh mượn danh
ren, loạn lạc mà các vua Lê như Uy Mục, Tương Dực và quyền thần đã gây ra. (Tiếc rằng sự trị vì của Mạc Đăng Doanh, người kế vị Mạc Đăng Dung, chỉ kéo dài trên dưới 10 năm (1530-1540). Ngay sau sự kiện này không lâu, Mạc Đăng Dung (tuy lúc này không còn ở ngôi nữa) đã làm một việc đê nhục tới thể diện quốc gia: cắt đất, thần phục “thiên triều” và không danh chính xưng vương. Sự kiện này đã tạo nên một sự “va đập” rất mạnh
vào niềm tin của nho sĩ Nguyễn Bỉnh
nghĩa nhà Lê mà giữ trọng quyền ở trung ương theo kiểu “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” đến giờ vẫn chỉ là tương truyền. Song điều này cho thấy nhận thức khá linh hoạt của Nguyễn Bỉnh Khiêm về tình hình chính trị lúc đó. Ông là người kịch liệt phê phán, phản đối chiến tranh, cát cứ. Song việc khuyên ba thế lực trấn giữ ba địa phận thì hóa ra là ông đã tiếp tay cho nạn cát cứ? Có lẽ điều này cần được nhìn từ thực tế khi Nguyễn Bỉnh Khiêm
thấy rằng thời điểm thống nhất đất nước,
Khiêm. Ngày 22 tháng 8 âm lịch năm giang sơn thu về một mối chưa chín
1541, Mạc Đăng Dung mất thì đúng một năm sau, năm 1542, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng “sớ đàn hặc” xin chém 18 lộng thần. Mạc Phúc Hải không chấp thuận, Nguyễn Bỉnh Khiêm xin về hưu. Ông lựa chọn chính nơi từng cất bước ra đi để trở về
dưỡng hối: Làng Trung Am, huyện Vĩnh
muồi. Khoan hòa và giữ ở hiện trạng như thế ít nhất để đời sống của nhân dân tạm yên ổn, huynh đệ giảm đi sự tương tàn nồi da nấu thịt. Và bản thân ông, do sự quy định của lịch sử cũng hoàn toàn bất lực về việc tìm kiếm một nền hòa bình
vững chắc cho đất nước thống nhất.
Lại (nay thuộc Vĩnh Bảo, thành phố Hải Từ năm 1554 đến năm 1561,
Phòng). Tại đây, ông mở quán Trung Tân, lập am Bạch Vân, lấy hiệu Bạch
Vân cư sĩ và mở trường dạy học. Khát
Nguyễn Bỉnh Khiêm có tới hai lần theo quân Mạc đi đánh anh em Vũ Văn Mật ở
Tuyên Quang. Ông từng lấy tình bè bạn
vọng hành đạo của kẻ sĩ được ông tạm khuyên Nguyễn Thiến răn con trai thời gác lại, truyền dạy, gửi gắm và kí Nguyễn Quyện và lấy tình thầy trò thác qua các bài giảng cho môn đệ và qua khuyên Nguyễn Quyện bỏ Lê – Trịnh về thơ văn. với nhà Mạc. Khoảng năm 1563 thì
Trong thời gian hưu trí ở quê nhà,
Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn gián tiếp dự bàn
Nguyễn Bỉnh Khiêm xin về trí sĩ tại quê
hương và từ đây tới khi mất, ông không
59
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(73) năm 2015 ____________________________________________________________________________________________________________
tham gia trực tiếp vào chính sự nữa. cái tôi ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm thể
Trước khi mất, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn
để lại cho Mạc Mậu Hợp kế hoạch để có
hiện, bảo toàn di dưỡng sự cao khiết của
khí tiết trước tục lụy.
thể duy trì dòng họ của mình ở đất Cao
Bằng. Điều này thêm một minh chứng
2. Ẩn là chối từ danh lợi
Danh là hướng đến giá trị tinh thần;
cho thấy tình cảm, sự gắn bó khá sâu sắc của họ Nguyễn với nhà Mạc. Năm 1585,
khi nghe tin Nguyễn Bỉnh Khiêm mất,
còn lợi là những giá trị vật chất. Với nho sĩ nói chung và người ẩn dật nói riêng thì
danh và lợi luôn là những vấn đề được họ
vua Mạc đã sai Mạc Kính Điển làm đề cập, còn thái độ của họ với điều đó thì
Khâm sai, cùng các con về dự tế, truy phong ông Thượng thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công, lại ban cho sở tại ba nghìn quan tiền để lập đền thờ và cấp một trăm mẫu ruộng tự điền để thờ cúng. Học trò làm văn tế Nguyễn Bỉnh Khiêm và tôn ông là Tuyết Giang phu tử.
Như vậy, sinh ra ở làng Trung Am và trở về hưu trí cũng như mất tại làng Trung Am, có thể nói không gian Trung Am đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vai trò cực kì quan trọng. Nó là nơi bắt
đầu cũng là nơi trở về mãi mãi của một
ở mỗi người mỗi khác.
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng coi vấn đề lập danh là một nội dung quan trọng trên con đường hành đạo của mình. Nhưng khác với các nhà nho trước và sau mình, thi nhân không quá trăn trở về điều này. Khảo sát “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”, chúng tôi thấy chỉ có một lần ông đề cập chí hướng công danh:
Đôi chữ công danh còn xắm nắm, Một lòng ưu ái hãy lăm le.
(Bài 111)1
Lí giải về điều này, có lẽ là xuất
con người say mê lí tưởng, khát vọng phát từ nhận thức của Nguyễn Bỉnh
cống hiến luôn sục sôi. Nẻo đường hành đạo của ông, nhìn bề ngoài có thể không có nhiều sóng gió song ở vào bất kì thời điểm nào, trong mỗi sự lựa chọn đều mang cái dữ dội riêng của nội tâm ông. Chỉ có điều, với tư cách của bậc túc nho, trí và dũng đều đạt độ cao siêu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện ra bên ngoài, qua thơ văn, sự ung dung, tự tại, bình thản đến bất ngờ đối với đương thời cũng như hậu sinh. Đối với sáng tác thơ văn, qua “Bạch Vân am thi tập” và đặc biệt “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”, người đọc sẽ thấy ở đó bàng bạc không gian làng Trung Am, không gian thực giữa cõi đời mà
bảng lảng sương khói, mênh mang cho
Khiêm: Ong cảm thấy hài lòng, tri túc về những gì mình đã đạt được trên phương diện danh vọng, kể cả sự thụ hưởng về vật chất:
Hễ kẻ làm quan đã có duyên, Tới lui mặc phận tự nhiên.
Thân xưahương lửa chăng cònước, Chí cũ công danh đã phỉ nguyền.
(Bài 51, tr.95) Hài lòng về công danh của mình –
đây là điều hiếm thấy ở nho sĩ trung đại, kể cả mẫu người ẩn dật. Thêm một lí do để giải thích cho thái độ ung dung, tự tại của ông khi chan hòa cùng với cuộc sống thôn
xóm, không gian làng Trung Am.
60
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Văn Tấn ____________________________________________________________________________________________________________
Từ đó, ông tìm cách đối lập giữa
công danh và đời sống của ẩn sĩ. Công
Nép mình qua trước chốn xôn xao,
Mấy sự bên tai, gió thổi phào.
danh là khổ lụy, mặn lạt, chông gai. Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích,
Người chạy theo công danh sẽ khó có thể tìm kiếm một cuộc sống bình an. Cuộc
sống ẩn dật thì vui thú, thỏa mãn về tinh
Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao. (Bài 83, tr.123)
3. Ẩn là đứng cao hơn thế tục
thần: Lựa chọn một điểm dừng chân: Thuở áng công danh,nhiều phảilụy, làng Trung Am nhưng Nguyễn Bỉnh
Trong nơi ẩn dật mấy nên mầu. Thuở nơi doanh mãn là nơi tổn, Hãy gẫm chi hay mới kẻo âu.
(Bài 9, tr.60) Mùi thế gian nhiều mặn lạt,
Đường danh lợi có chông gai. Mấy người phú quý hay yên phận? Hễ kẻ anh hùng những cậy tài?
(Bài 40, tr.85) Nhìn thấy bước đường công danh
nhiều hiểm trở mà ông ngại chen để kiếm
tìm cuộc sống ẩn:
Khiêm lại can thiệp khá sâu vào cục diện của đất nước đương thời, điều đó thể hiện uy vọng rất lớn của ông đối với các tập đoàn phong kiến. Trong thơ, ta sẽ thấy hình tượng của một thi nhân luôn đứng cao hơn tục lụy, nhìn về tục lụy bằng con mắt của một người đạt được cái đạo của ẩn sĩ: vinh hay nhục, khen hay chê, được và mất đều trở nên vô nghĩa:
Vinh nhục ba phen hẳn đã từng, Lòng người, sự thế lâng lâng.
Khen thì nên ngộ, chê nên dại,
Thấydặmthanh vân bướcngạichen,
Được nhàn, ta sá dưỡng thân nhàn.
Mất ắt chăng âu, được chẳng
mừng.
Ba gian am quán, lòng hằng mến, Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen.
(Bài 8, tr.59) Phủ định danh lợi từ căn gốc triết
học trong tư tưởng Lão – Trang, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi công danh, lợi lộc ở đời chỉ như một giấc chiêm bao, như giấc mộng mà thôi:
Lần lữa ngày qua tháng qua, Một phen xuân tới, một phen già. Ái ưu bằng vặc: trăng in nước, Danh lợi lâng lâng: gió thổi hoa.
(Bài 1, tr.53) Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Bài 73, tr.114)
(Bài 6, tr.67) Mống phúc vun, hòng ngày một này, Cửa nho ngỏ, kẻo phải then cài. Yên đòi phận dầu tự tại,
Lành dữ khen chê, cũng mặc ai. (Bài 12, tr.63)
Con người ấy tìm được niềm vui thú với cuộc sống của người ở ẩn. Đời sống vật chất chỉ để duy trì sự tồn tại luôn có sẵn trong tự nhiên. Con người ấy nói đến sinh hoạt vật chất mà thực lại là đời sống tinh thần:
Khát uống chè mai hơi ngọt ngọt, Sốt, kề hiên nguyệt gió hiu hiu.
(Bài 3, tr.54)
61
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(73) năm 2015 ____________________________________________________________________________________________________________
Cơm ăn chẳng quản dưa muối, Áo mặc nài chi gấm thêu?
(Bài 67, tr.110) Cuộc sống của ẩn sĩ là cuộc sống tự
cấp tự túc, đói thì cày ruộng để tăng gia
Non xanh nước biếc xưa là hẹn, Ngẫm nghĩ đòi khi chớ bấy nhiêu.
(Bài 37, tr.82) 4. Ẩn là hòa mình vào thiên nhiên
Đối với ẩn sĩ thì thiên nhiên là môi
sản xuất, tự trồng trọt để lấy rau quả (không thấy nhắc đến chăn nuôi):
Cày ăn, đào uống yên đòi phận, Sự thế chăng hay đã Hán, Tần.
(Bài 50, tr.94) Ruộng thì hai khóm đất con ong, Đầy tớ ta cày kẻo muộn mòng.
(Bài 52, tr.96)
Ruộng năm, bảy khómtrồng câylúa,
trường lí tưởng nhất để họ ẩn, giấu mình đi trước cõi tục. Bởi thiên nhiên chứa đựng trong nó cái bản nguyên chân tính cao khiết. Thiên nhiên thanh sạch, tĩnh lặng sẽ là không gian đối lập với đời sống xã hội đương thời. Người ẩn dật dù ở đường hướng nào khi đã lựa chọn con đường thoái lui bao giờ họ cũng chọn sơn
khê, nơi có thiên nhiên bao trùm làm môi
Tằm chín, mười nong để giống ngài. trường ẩn của mình. Có người chọn
(Bài 122, tr.155) Ẩn sĩ làng Trung Am tìm tới một
cuộc sống thanh đạm, giản dị, lấy bàn rượu cuộc cờ, án sách làm thú vui, trăng
thanh gió mát làm bầu bạn, uống trà,
không gian núi non, xa với cuộc sống xã hội như Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ; có người lại lựa chọn không gian ẩn gần với cuộc sống của nhân dân hơn như trường
hợp của Nguyễn Bỉnh Khiêm (cùng típ
ngắm cảnh, thưởng ngoạn thiên nhiên… với Nguyễn Khuyến sau này). Và tất
Ẩn sĩ ấy tự thấy mình là khách nhàn, là tiên giữa cõi tục:
Nước tuyết hâm trà dưới bếp, Bút hoa điểm sách trên yên.
Nương song,ngàytiếcmùihương lọt, Nối chén, đêm âu bóng quế tan.
(Bài 23, tr.71-72)
nhiên, sẽ là lí tưởng nếu như nơi bắt đầu con đường dấn thân hành đạo của họ lại chứa đựng đủ đầy những giá trị để họ có thể trở về dưỡng hối như trường hợp của làng Trung Am2. Nhưng điều đáng nói ở đây là ở chỗ: dù không gian ẩn này có
gần với sinh hoạt xã hội đến đâu thì bản
Bàn cờ, cuộc rượu, vầy hoa trúc, thân nho sĩ bao giờ cũng tạo ra một
Bó củi, cần câu, trốn nước non. Nhàn được thú vui hay nấn ná,
Bữa nhiều muốn bể chứa tươi ngon. (Bài 29, tr.76)
Hễ của tự nhiên, có ít nhiều, Một kho tạo hóa cũng chia đều.
Hương đầy tiệc khách, hoa khi rụng, Hứng dẫy vườn xuân, chim thuở kêu. Án cũ giở xem ba quyển sách,
Song thưa, ngơi nghỉ một con lều.
khoảng cách nhất định, khoảng cách về không gian chứ không phải khoảng cách về mặt tình cảm. Đọc “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”, hẳn người đọc sẽ thấy ở đó bàng bạc cái không gian Trung Am của quê hương họ Nguyễn. Song không gian đó lại có cái bảng lảng sương khói, có trăng, có mây, có sông nước, có trúc, có chim, có hoa… Tất cả tạo ra một không
gian, môi trường phù hợp với ẩn sĩ. Lập
62
…
– tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn
nguon tai.lieu . vn