Quy trình siêu âm doppler mạch ở bệnh nhân hồi sức cấp cứu | BvNTP

ĐẠI CƯƠNG

Siêu âm mạch máu cấp cứu tại giường là một kỹ thuật thăm dò không xâm nhập  rất cần thiết trong hồi sức cấp cứu các bệnh nhân (Bệnh nhân) nặng, giúp cho các bác sĩ lâm sàng chẩn đoán nhanh một số bện lý của mạch máu, từ đó đưa ra biện pháp điều trị tích cực và hiệu quả cho Bệnh nhân.

 

CHỈ ĐỊNH

Huyết khối tĩnh mạch

Huyết khối động mạch

Bệnh lý động mạch cảnh…

Bệnh lý động mạch thận

Phình tách động mạch

 

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không có chống chỉ định.

 

CHUẨN BỊ

Nhân viên y tế:

1 bác sĩ và 2 điều dưỡng.

Bác sĩ đã được đào tạo về siêu âm tim: 

Đội mũ, đeo khẩu trang, rửa tay.

Ngồi bên phải của người bệnh.

Tay phải cầm đầu dò, tay trái điều chỉnh các nút của máy siêu âm.

Điêu dưỡng: đội mũ, đeo khẩu trang.

01 Điều dưỡng theo dõi các chức năng sống, đảm bảo hô hấp và đường truyền tĩnh mạch cho bệnh nhân trong quá trình làm siêu âm.

01 Điều dưỡng phụ giúp bác sĩ trong quá trình làm thủ thuật: thay đổi tư thế bệnh nhân.

Phương tiện

Máy siêu âm có chức năng siêu âm mạch máu.

Máy monitor theo dõi chức năng sống: nhịp tim, SpO2, nhịp thở, huyết áp.

Gel siêu âm: 1 lọ

Gạc sạch vô khuẩn: 1 gói

Bệnh nhân

Giải thích cho Bệnh nhân, gia đình Bệnh nhân biết lợi ích của siêu âm mạch máu tại giường.

Bệnh nhân nằm ngửa, tùy vào vị trí siêu âm mà có tư thế khác nhau.

Mắc điện tâm đồ đồng thời trong lúc làm siêu âm.

Bệnh nhân có thở máy phải chú ý đảm bảo tình trạng hô hấp cho Bệnh nhân trong quá trình làm siêu âm.

Bệnh nhân có truyền các thuốc vận mạch phải chú ý đảm bảo đường truyền tĩnh mạch trong quá trình làm siêu âm.

Hồ sơ bệnh án

Ghi phiếu chỉ định siêu âm mạch máu.

Ghi các thông số đo được vào tờ phiếu kết quả siêu âm và dán vào bệnh án.

 

GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ HỆ TUẦN HOÀN

Máu từ thất trái đi qua van động mạch chủ ra hệ thông tuần hoàn ngoại vi đưa máu đã được làm giầu oxy đến các cơ quan trong cơ thể, sau đó qua hệ mao mạch rồi trở về hệ tuần hoàn tĩnh mạch sau đó về tim phải.

Số lượng tĩnh mạch luôn luôn nhiều hơn số lượng động mạch

Có 2 hệ tĩnh mạch chính:

Hệ tĩnh mạch nông: nằm ngay dưới da, trên nền các cân cơ.

Hệ tĩnh mạch sâu: có liên quan với động mạch và đi cùng với động mạch, mang tên của động mạch đi cặp với nó.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự trở về tim của tuần hoàn tĩnh mạch:

Áp lực nhĩ phải

Hô hấp

Co bóp của cơ

Hệ thống van tĩnh mạch

 

CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH

Sử dụng đầu dò chuyên mạch máu (đầu dò line) đặt vào vị trí cần thăm dò mạch máu.

Siêu âm Doppler

Hiệu ứng doppler được phát sinh khi sóng siêu âm với một tần số fi được phát ra gặp một cấu trúc đang chuyển động, dội trở lại với tần số fr, hiệu số fi và fr là fd

                                     

V: vận tốc dòng máu theo cm/sec

θ: góc hợp bởi chùm siêu âm tới fi và chiều di chuyển của cấu trúc. Trong tim mạch cấu trúc là dòng máu, đại diện là hồng cầu

C: vận tốc của sóng siêu âm trong mô sinh vật (1560 cm/sec).

Mục đích của siêu âm doppler: khảo sát huyết động không xâm nhập

Các dạng của siêu âm doppler: doppler xung, doppler liên tục, doppler màu (một dạng đặc biệt của doppler xung).

Doppler xung: sóng siêu âm phát ra và sóng thu nhận được thực hiện bởi 1 tinh thể, do đó chùm siêu âm phát ra ngắt quãng để đầu dò nhận âm dội sau 1 khoảng thời gian chậm chễ (time delay) mà độ dài ngắn phụ thuộc vào độ sâu cần thăm dò.

Doppler liên tục: sóng siêu âm phát ra và sóng thu nhận được thực hiện bởi 2 tinh thể khác nhau của đầu dò, do đó không có hạn chế về tốc độ máu.

Doppler màu: là doppler xung mà vận tốc và chiều di chuyển của dòng máu được thể hiện bằng mầu sắc khác nhau với độ đậm nhạt khác nhau. Theo qui ước, khi dòng chảy hướng tới đầu dò ta có màu đỏ, và màu xanh khi dòng chảy đi xa đầu dò.

Khảo sát doppler mạch máu

Khảo sát hệ động mạch

Đối với động mạch chi dưới: 

Người bệnh nằm tư thế ngửa, bằng. Khảo sát dòng máu động mạch ở đùi, khoeo chân, chày…

Tiếp đến, đầu dò siêu âm được sử dụng để phân tích động mạch và dòng máu bên trong.

Đối với động mạch chi trên: khảo sát động mạch dưới đòn, rồi sau đó đi ngược lên động mạch cánh tay.

Đối với hệ thống động mạch ở cổ: đầu tiên cũng là động mạch dưới đòn sau đó khảo sát động mạch dọc theo cổ, động mạch cảnh trong và động mạch cảnh ngoài.

Một số động mạch ở não có thể khảo sát bằng siêu âm doppler, đầu dò được đặt sát vùng thái dương.

Động mạch trong ổ bụng: mạch thận, mạch gan, lách…

Qua siêu âm doppler động mạch chủ yếu tìm những yếu tố sau:

Sự hiện diện của mảng xơ vữa bên trong lòng mạch.

Đo dòng máu bên trong động mạch.

Tìm chỗ hẹp động mạch, kết hợp với tăng dòng máu trên doppler.

Phân tích thành động mạch.

Tìm chỗ tắc nghẽn, tương ứng với cục máu đông.

Khảo sát hệ tĩnh mạch

Cũng giống như thăm dò hệ động mạch: tư thế bệnh nhân, sử dụng đầu dò doppler mạch máu (đầu dò line), vị trí đặt đầu dò

Các nghiệm pháp huyết động để nghiên cứu dòng chảy tĩnh mạch

Ép vào cơ phía thượng lưu của vị trí đặt đầu dò Doppler sẽ gây tăng tốc dòng tĩnh mạch

Nếu ép vào cơ phía hạ lưu của vị trí đặt đầu dò Doppler sẽ gây mất tín hiệu Doppler của dòng chảy tĩnh mạch. Khi có suy van tĩnh mạch thì vẫn ghi được dòng chảy tĩnh mạch.

Nâng cao chân sẽ gây tăng tốc độ dòng chảy tĩnh mạch

Nghiệm pháp Valsalva: làm tăng áp lực ổ bụng sẽ làm mất dòng chảy ở tĩnh mạch đùi (khi có suy van tĩnh mạch sẽ vẫn có dòng chảy trào ngược). Khi thở ra dòng chảy tĩnh mạch lại xuất hiếnẽ cho biết tĩnh mạch chủ-chậu thông.

Triệu chứng tắc tĩnh mạch

Tuần hoàn tĩnh mạch bị tắc có thể do bản thân bệnh của tĩnh mạch hoặc do tổ chức xung quanh chèn vào.

Dấu hiệu trực tiếp: không có tín hiệu Doppler, TM ấn không xẹp hoặc xẹp không hoàn toàn.

Dấu hiệu gián tiếp: giảm tốc độ tuần hoàn ở phía trên chỗ bị tắc, tăng tốc độ tuần hoàn trong các nhánh tĩnh mạch bàng hệ (ví dụ như TM hiển ở chi dưới).

Các bất thường về hính thái của tĩnh mạch

Tĩnh mạch giãn và tăng áp lực tĩnh mạch

Ở tư thế nằm nhưng các tĩnh mạch lại rất giãn, ấn xẹp, đập và giãn nở theo nhịp đập của tim gặp trong: như HoBL, dò ĐM-TM…

Suy van TM sâu và nông: các TM giãn, đặc biệt khi Bệnh nhân đứng TM giãn to hơn, nhưng các tm vẫn bị xẹp hoàn toàn khi ấn đầu dò lên TM. Các TM này càng giãn hơn khi làm nghiệm pháp Valsalva hoặc ép khối cơ phía dưới của vị trí đặt đầu dò.

Giãn tĩnh mạch do huyết khối tĩnh mạch

TM giãn to ngay khi BỆNH NHÂN nằm, TM tròn ở mặt cắt ngang

TM ấn không xẹp dưới đầu dò

Trên siêu âm 2D có thể thấy rõ hình thái của huyết khối, huyết khối gây tắc hoàn toàn lòng mạch (ấn không xẹp). Cục huyết khối thường bám chặt vào thành TM, do đó vùng TM bị huyết khối này sẽ không giãn ra khi làm nghiệm pháp Valsalva.

Huyết khối gây tắc không hoàn toàn lòng mạch: TM ấn xẹp không hoàn toàn, làm nghiệm pháp Valsalva hoặc bóp ở phí dưới vị trí đặt đầu dò có thể gây giãn thành TM. Có khi TM bị tắc một phần nhưng ấn vẫn không xẹp, nhưng khi làm nghiện pháp Valsalva hoặc bóp đủ mạnh ở phái dưới đặt vị trí đầu dò sẽ làm tăng khẩu kính TM.

Giãn tĩnh mạch do bị chén ép từ bên ngoài

TM bị chèn ép liên tục:

Tại vị trí bị chén ép: bị xẹp khi ấn đầu dò nhưng TM không giãn ra khi bệnh nhân đứng hoặc bóp ở phía dưới chỗ bị đè. 

Trước và sau chỗ bị chén ép:  TM sẽ giãn ra khi bệnh nhân đứng hoặc bóp ở phía dưới chỗ bị đè.

Tĩnh mạch bị chén ép tạm thời hoặc tư thế đứng

TM chi dưới giãn ở phụ nữ có thai

Tĩnh mạch cánh tay giãn do bị chén ép bởi cân cơ ngực ở một tư thế nào đó trong hội chứng ngực-cánh tay.

Hội chứng Cockett: sự bắt chéo của tĩnh mạch chậu gốc trái với động mạch chậu gốc phải → lám cho tĩnh mạch chậu gốc phải bị chén ép.

THEO DÕI : 

Ý thức, mạch, huyết áp, nhịp thở, SpO2 trong quá trình làm siêu âm

Các thông số máy thở (nếu Bệnh nhân đang thở máy).

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương – Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

Alternate Text Gọi ngay