[THƯ ĐÁP]: Thư Gửi Các Đồng Tu Về Niệm Phật Đạt “Bất Niệm Tự Niệm” Của Cư Sỹ Diệu Âm Minh Trị Úc Châu.
Kính chị Thu Hương,
Những gì cần thiết về pháp hộ niệm hình như Diệu-Âm đã giải bày tường tận. Đó là chánh pháp của Tổ Sư để lại, đúng kinh đúng pháp, chứ không phải Diệu-Âm tự nghĩ ra. Trong thời gian gần đây, phong trào Bất Niệm Tự Niệm làm cho nhiều người lo lắng xôn xao, đã đặt ra khá nhiều câu hỏi. Trong nhiều tọa đàm Diệu-Âm cũng cố gắng y theo lời chư Tổ trong Tịnh-Độ để khuyên nhắc người niệm Phật chớ nên quá hiếu kỳ mà dễ gặp điều sơ suất. Nay trước sự lo âu của chị, Diệu-Âm xin chia sẻ thêm vài điều.
Trong kinh Phật dạy, thời này là mạt pháp có sự đấu tranh kiên cố. Chúng ta là hàng phàm phu tội chướng sâu nặng, muốn đời này được vãng sanh Tịnh-Độ thì phải cố gắng xa rời sự đấu tranh này. Nếu cứ bàn về chuyện đúng sai của thế gian thì chúng ta dễ bị lôi cuốn vào đó mà chịu nạn. Vậy thì, tự mình phải lo gìn giữ tâm thanh tịnh niệm Phật mà cứu lấy mình, không thể thấy người khác dao động mình cũng dao động theo, đừng thấy thiên hạ làm sai mình cứ chen vào sửa sai họ. Tất cả đều do duyên nghiệp của chúng sanh mà thành hình cả. Ta đã gặp được chánh pháp để tu hành thì phải giữ tâm vững vàng, đừng chao đảo. Hãy nhớ lấy nguyên tắc: “Ngoại bất trước tướng, nội bất động tâm” thì mới tu hành yên ổn trong thời này. Chuyện thử thách đến vấn đề hưng suy của pháp môn Tịnh-Độ thì chúng ta hãy cầu Phật Bồ-Tát gia trì, còn phận sự của mình chính là phải biết y giáo theo pháp Phật, y giáo theo lời Tổ tu hành là được.
Sóng triều dâng lên càng cao thì chìm xuống càng sâu. Người biết huân tu thì phải giữ tâm bình lặng, gặp cảnh xấu không buồn, gặp cảnh tốt không mừng thì không bị cảnh chuyển. Không bị cảnh chuyển nghĩa là đường tu không bị lạc. Còn thời mạt pháp này mà người nào cứ háo hức tham đắm vào những cảnh hão huyền, thì ngài Ấn-Quang nói: “Rất dễ bị vướng vào lưới ma”.
Vướng vào lưới ma nghĩa là lạc vào tà đạo. Cho nên, nếu tâm ta đã có chủ định rồi, thì bên ngoài chúng sanh làm gì đó mặc họ, mình không nên lo tới, bên trong tâm phải “Tự nhiên nhi nhiên, như như bất động” trước những hiện tượng lạ thì mới tránh khỏi phiền não, tu hành mới thành tựu được.
Nên nhớ, tất cả đều phải tùy duyên, Diệu-Âm luôn luôn giữ nguyên tắc này. Nếu có chút duyên thì đi khuyên người niệm Phật, bày vẽ pháp hộ niệm. Ai có duyên thì nghe, ai không duyên thì cứ để họ theo hướng riêng của họ, còn Diệu-Âm này đã thấy rõ ràng pháp hộ niệm là Đại-Cứu-Tinh cứu độ chúng sanh trong thời mạt pháp này, thì tự mình phải bám chắc cơ hội này mà vãng sanh. Trong khoảng mười năm qua, từ khi người Việt-Nam chúng ta bắt đầu biết áp dụng pháp hộ niệm đã thực sự cứu đến hàng ngàn người ra đi có tướng tốt không thể nghĩ bàn rồi. Chính ban hộ niệm của chị đã trợ duyên thành công cả trên 100 người rồi phải không? Nếu tính chung trong cả nước, đến nay năm 2014, có lẽ hiện tượng vi diệu này xảy ra riêng tại Việt-Nam của chúng ta thôi, cũng không còn cách nào đếm được nữa rồi. Nhất định trong những người ra đi được hộ niệm đã để lại thoại tướng này, một số lớn họ đã thực sự được vãng sanh Tịnh-Độ, phần còn lại, giả như không được vãng sanh, thì ít ra họ cũng được sanh Thiên, đây đâu phải là điều dễ tìm. Năng lực câu Phật hiệu vi diệu không thể nghĩ bàn. Sự lợi ích của pháp hộ niệm cũng không thể nghĩ bàn. Thật quá quý hóa!… Thật quá vi diệu!…
Trong khi trước đó, chính Diệu-Âm này đã bỏ phí đến gần 50 năm trường để lặn lội khắp nơi tìm cơ giải thoát, nhưng tìm mãi vẫn không thấy được một tia lóe hy vọng nào. Nghe đến những triết lý cao kỳ thì quá nhiều, nghe đến những lý luận huyền diệu về cảnh chứng đắc thì quá nhiều, nghe đến những sự cứu rỗi như pháp thần cũng quá nhiều, v.v… và v.v… nhưng sau cùng kiểm lại mới ngỡ ngàng ra một sự thực, đó là con số “0” to tướng!… Tệ hơn, nhiều khi lại là con số âm nữa là khác!… Nói chung, lý luận thì hay quá, còn thành quả thực sự thì mờ mờ mịt mịt!…
Pháp hộ niệm đúng chánh pháp, hợp lý đạo, hợp căn cơ, hợp thời kỳ, hợp hoàn cảnh, đã được ứng dụng có thành quả cụ thể thì ta phải tin tưởng mà y giáo phụng hành để được giải thoát. Người thật sự thận trọng thì không bao giờ vội vã chạy theo những hiện tượng sôi nổi của thế gian, không bao giờ dám nhẹ nhàng gởi huệ mạng của mình cho một lời hứa chưa được kiểm chứng. Thế gian xưa nay thường hứa hẹn đến những sự nghiệp vĩ đại lắm, nhưng rồi thất hứa cũng nhiều lắm. Hy vọng thì tràn trề, nhưng thất vọng cũng não nề, đây là chuyện rất thường xảy ra.
Áp dụng pháp Hộ Niệm do chư Tổ để lại, xác thực đã cứu người vãng sanh quá rõ ràng. Hàng tuần khắp đó đây đều có tin tức vãng sanh. Hộ niệm vãng sanh thực sự đã có chứng minh cụ thể, chứ không còn là lời hứa hẹn suông, không phải là chuyện mơ mộng viễn vông hay niềm hy vọng bấp bênh cho tương lai nữa. Vậy thì, còn gì để chúng ta phải phân vân chao đảo nữa đây?
Đối với liên hữu đồng tu, nếu có sự quan tâm thì hãy khuyên họ rằng, một khi chọn lựa một pháp tu nào để gởi gắm huệ mạng phải cân nhắc hết sức cẩn thận. Gặp một chuyện gì lạ nên bình tĩnh suy xét, tốt nhất nên tìm đến các bậc đạo sư tu hành chân chính cầu chỉ điểm trước khi quyết định thì an tâm hơn. Nếu không có duyên gặp bậc đạo sư, thì hãy thành khẩn đọc kỹ những lời khai thị của chư Tổ trong Tịnh-Độ Tông thì cũng có chỗ nương dựa tốt. Chư Tổ Sư toàn là Phật Bồ-Tát thị hiện, chúng ta phải vững tâm tin tưởng.
Hôm nay vì thấy quá nhiều người lo ngại về chuyện bất niệm tự niệm và đã gạn hỏi quá nhiều, bất đắc dĩ Diệu-Âm phải trả lời, nhưng chỉ xin lấy đại lượt những lời dạy của chư Tổ trong Tịnh-Độ Tông để nhắc nhở nhau thôi, chứ không muốn tự mình phê phán một pháp nào.
Trước hết, chúng ta nên chú ý rằng, lịch đại chư vị Tổ Sư Tịnh-độ từ trước tới nay luôn luôn khuyến cáo người tu hành trong thời mạt pháp này cần chú ý những điểm sau đây:
– Chớ nên hiếu kỳ trước những điều lạ thường.
– Chớ nên tham đắm những sự thần kỳ, đặc dị.
– Chớ nên đam mê những cảnh giới nhiệm mầu.
– Chớ nên mong cầu chứng đắc.
– Chớ nên khoe trương công hạnh của mình.
– Chỉ nên khiêm cung, chí thành niệm Phật cầu vãng sanh là tốt nhất.
Nhất định đây phải là vấn đề vô cùng hệ trọng, nên chư Tổ trăm lời một ý đều cảnh cáo Phật tử đồng tu như vậy. Thời mạt pháp này vàng thau lẫn lộn, nhất thời khó bề phân biệt. Nếu chưa nắm vững được đâu là thực đâu là giả, thì chúng ta nhất định phải kềm chế tánh hiếu kỳ, đừng tham đắm những mối lợi trước mắt mà vội vã gởi huệ mạng vào đó, coi chừng một khi chướng nạn trùng trùng ập đến thì đã quá muộn màng, không còn cách nào giải cứu nữa, oan uổng cho một đời tu hành mà sau cùng lại rước họa vào thân!…
Trước đây có một vị Sư quen biết gởi tặng Diệu-Âm cuốn sách tựa đề “Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm, bảo đảm vãng sanh”. Có lẽ đây là quyển sách chính hướng dẫn về pháp “Bất Niệm Tự Niệm”. Đọc quyển sách đó, Diệu-Âm thấy tác giả có công sưu tập tốt, trích dẫn khá nhiều lời của Phật trong nhiều kinh, cũng như lời của chư Tổ Sư Tịnh-Độ. Điều này rất tốt và rất cần thiết. Nhưng khi đọc đến chỗ người thực hành đạt được cảnh giới bất niệm tự niệm nhanh chóng quá, dễ dàng quá, có người chỉ tu tập vài ngày thì đạt được cảnh giới này đã làm cho Diệu-Âm phải giựt mình!…
Trong đời Diệu-Âm có gặp nhiều người đã khoe ra những cảnh chứng đắc vi diệu lắm, ví dụ như: Họ nghe được tiếng Phật hiệu vang mãi bên tai, thấy được Phật hiện thân hàng ngày, thấy “Phật Bà” Quán-Âm đến khải thị chỉ điểm đường tu hành. Có người thấy được ánh sáng, ngửi được hương thơm. Có người tu chứng được thiên nhĩ thông, có thể nghe được cách xa hàng 100 cây số. Có người được pháp nhĩ căn thanh tịnh có thể nghe và nói chuyện được với chó mèo, đến nỗi nghe được tiếng cây cỏ tâm sự. Có người sau khi được truyền “Tâm-Ấn” thì luôn luôn nghe được Thiên-Nhạc vang vọng cả bầu trời, và họ nói rằng sở dĩ được như vậy là nhờ được truyền thọ một đại pháp có thể tức khắc khai ngộ thành đạo Vô-Thượng. Họ đã gặp Diệu-Âm và kể lại những chuyện thật huyền diệu và họ rất tin tưởng rằng nhất định sẽ được đắc đạo. Nhưng một thời gian sau thì hầu hết hình như đều bị ách nạn, nặng như có người đã treo cổ tự tử chết, té xuống giếng chết, con cái tự tử trong nhà, v.v… Nhẹ thì có người bị trở ngại thần kinh phải vào bệnh viện tâm thần, và nhẹ nhất là mất nhiều trí nhớ, sống hơi lơ lơ láo láo!… Đây là những sự thật chính Diệu-Âm vừa thấy tận mắt, vừa nghe tận tai… Hẳn nhiên, những người bị ách nạn này chưa chắc họ có thực hiện pháp bất niệm tự niệm, nhưng hầu hết đều liên quan đến tâm hiếu kỳ ham mê chứng đắc.
Có lẽ Diệu-Âm không có duyên với cách tu cầu chứng đắc, nên bị dị ứng với cảnh chứng đắc chăng? Nếu quả vậy, thì chắc chắn Diệu-Âm này thuộc hàng hạ căn, trí độn, nghiệp chướng sâu dày rồi. Nhưng khi gặp bạn đồng tu, thì cũng có rất nhiều người nêu ra sự lo âu tương tự. Như vậy quả thật hàng hạ căn trong thời này quá nhiều. Người hạ căn nhiều, thì sẽ có nhiều người không đủ khả năng thực hành các pháp tu nhanh chóng đắc độ… Cũng thật là oan uổng, khả năng thì không đủ, nhưng hiếu kỳ có thừa, vọng tưởng lại dư, ham mê chứng đắc lại mạnh… thành ra ách nạn đang chờ phía trước!…
Trong kinh Phật nói, thời mạt pháp này hàng hạ căn trí độn chiếm phần đa số, còn hàng căn tánh cao thượng thì rất hy hữu. Người thượng căn thượng trí quá hiếm hoi, còn người hạ căn thì nhiều vô lượng. Như vậy làm sao lại có hiện tượng tu chứng quá dễ dàng, quá nhanh chóng và hình như người nào thực hành cũng thoải mái đạt được?… Thật sự lạ lùng!… Với suy nghĩ sơ siển này nên Diệu-Âm lặng thinh, không dám hiếu kỳ, chỉ vì sợ rằng nếu tham đắm vào đó thì mình sẽ bị trở ngại!…
Viết sách, nói pháp thì ai cũng phải trích dẫn lời Phật, lời Tổ, lời chư Cổ-Đức. Nhưng nên nhớ bất cứ một pháp nào cũng có điểm ưu, điểm khuyết, nghĩa là có giới hạn của nó. Một người phát minh ra một pháp tu tập, nếu nhận thức rõ ràng rằng căn tánh chúng sanh rất sai biệt, thì chắc chắn phải thận trọng trong việc phổ biến ra đại chúng. Ấn-Quang đại sư là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tái lai, chẳng lẽ những pháp môn vi diệu, tối thắng, đốn ngộ Ngài không biết sao. Thế nhưng suốt cả đời Ngài chỉ nói những phương cách tu hành căn bản, cụ thể. Ngài chú trọng về tâm chí thành chí kính, chứ không hề nhắc tới các pháp nhanh chóng dễ dàng chứng đắc như một phép mầu. Tại sao vậy? Tại vì Ngài sợ chúng sanh vướng nạn. Ngài nói: “Người khác dạy người chú trọng vào chỗ huyền diệu, còn Quang tôi thì dạy người những gì họ có thể cố gắng làm được mà thôi…”. Dạy những gì họ có thể làm được chính pháp khế cơ. Hàng hạ căn thực hành pháp của Ngài không trở ngại, mà còn có thể thành tựu được, thì người thượng căn thượng trí lại càng dễ dàng thành đạo hơn nữa. Thực đúng là pháp của người đại giác ngộ.
Tổ thứ sáu trong Thiền-Tông, ngài Huệ-Năng là người nhất thời nghe kinh đốn ngộ, lời giảng của Ngài đúng chánh pháp và cao siêu như Phật thuyết và được tôn xưng như Kinh. Nhưng khi thuyết giảng, Ngài vẫn giữ đúng phạm vi của sự truyền pháp, chứ không hề truyền bá chung chung. Trong kinh Pháp-Bảo-Đàn, Ngài xác định rõ rệt về pháp của Ngài: “Thử pháp thị tối thượng, Ngã vị thượng căn thuyết, thượng trí thuyết”. Nghĩa là, pháp này vị diệu tối thượng, nhưng ta chỉ vì người thượng căn thượng trí mà thuyết ra. Ngài nói: “Nếu hàng trung-hạ căn mà theo tu tập pháp của Ta, thì nhiều lắm là kết chút duyên, chứ không thể thành tựu”. Nói cao vì duyên của Ngài độ hàng thượng trí. Khuyến cáo kẻ dưới để tránh cho hàng phàm phu vọng tưởng hiếu kỳ mà gặp điều trở ngại. Đây mới thực là sự truyền trao chánh pháp một cách toàn vẹn.
Hòa Thượng Tịnh-Không thường tán thán lời nói của ngài Huệ-Năng khi gặp tổ Hoằng-Nhẫn: “Trong tâm của con thường sanh trí huệ”, nhưng cũng có lần Ngài đã thẳng thắng mời một vị tu sĩ trong vòng hai tiếng đồng hồ phải ra khỏi Tịnh-Tông Học-Viện, chỉ vì vị này tự khoe sự chứng đắc của mình. Sự chứng đắc của vị này kể ra thì trên đời không dễ có mấy ai làm được, ví dụ như có thể nghe được tiếng nói một người ở xa hàng trăm cây số, thường nghe tiếng Phật hiệu tự nhiên phát ra, thấy được Phật hiện thân thọ ký, v.v… Ấy thế khi bị mời ra khỏi đạo tràng thì tính tình thay đổi đến không ai chịu nổi. Có sự chứng đắc nào lạ lùng vậy?!!!… Ngài Tịnh-Không rất tán thán người tu hành chứng đắc, tán thán người niệm Phật tự tại vãng sanh, nhưng chính Ngài cũng từng cảnh cáo rằng, “Khi tu hành có được điều gì tốt mà khoe ra, thì định lực của chư vị đã bị phá hỏng hết rồi”.
Cũng có lần Ngài nói, “Tu hành mà bạn thấy mình chứng đắc một cái gì, thì khi đó bạn đã bị tẩu hỏa nhập ma rồi”. Vì thế, khi trích văn dẫn giải cần phải trọn lời, trọn ý, nếu không thì oan cho chư Tổ lắm vậy.
Chính vì vậy, khi thấy những lời trích dẫn trong tập sách đã nghiêng hẳn về “Lý-Đạo” cao siêu, nhắc đến lý tưởng chứng ngộ thành đạo của chư Tổ, chư đại Bồ-Tát thì quá đậm, còn những lời khuyên dạy về “Sự-Tu” căn bản, thiết thực, cần thiết cho đại chúng, nhất là trong thời mạt pháp này thực hành để được lợi lạc, tránh bị trở ngại thì hình như hoàn toàn không có nhắc tới. Quên lãng điều này quả là một sự sơ suất!… Chứ nếu như tác giả khoanh vùng rõ rệt, có khuyến tấn, có cảnh giác, giúp cho đại chúng biết lượng sức mình một cách đúng mức để tu tập hợp căn cơ, tránh bớt vọng tưởng, thì nội dung của tập sách chắc chắn có giá trị cao hơn. Và những người giả tu, có tâm không chơn chánh cũng khó lợi dụng được.
Ấn Tổ dạy: “Sở dĩ những người tu hành gần đây, nhiều kẻ bị ma dựa là do tâm ý vọng động, cứ gấp rút muốn được cảnh giới chứng đắc thù thắng. Nếu người nào cứ hoan hỷ, tham trước điều này, dù cho có cảnh giới chơn thực hiện ra cũng sẽ bị tổn hại chứ chẳng ích lợi gì, huống hồ những cảnh giới đó chưa chắc gì là xác thực”.
Tại sao vậy? Phật dạy “Vạn pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Duy tâm sở hiện là chỉ cho cảnh giới ứng hiện tự nhiên. Duy thức sở biến là do tình thức tham trước mà cảnh giới bị biến chuyển mù mịt. Vạn sự vạn vật không có tự tánh, chỉ theo duyên mà chuyển biến thành ra thiên hình vạn trạng. Một đám mây không có tự tánh xuất hiện vô tư. Người có tâm trạng bất an thấy trong đám mây hiện ra khuôn mặt ác quỷ, người mong cầu cảm ứng nhìn đám mây thấy có ứng hiện hào quang, người vô tư lự trông đám mây vẫn chỉ là đám mây bình thường bay lững lờ như bao nhiêu đám mây khác. Đám mây lững lờ là “Duy Tâm sở hiện”, đám mây biến tướng là “Duy Thức sở biến”. Do tham trước của tình thức mà một đám mây vô tư đã mang nhiều hình tướng khác nhau. Duy thức sở biến chính là hư huyễn, chứ không phải là chân thật vậy.
Một hành giả niệm Phật đạt đến cảnh bất niệm tự niệm, niệm Phật thành khối, nhất tâm bất loạn… thì quá tuyệt vời, không thể nói là sai trái được. Tuy nhiên khi đưa ra một phương pháp để đại chúng thực hành đạt được sự thành tựu thì cần phải kết hợp thõa đáng hai điều: một là “Khế-Lý”, hai là “Khế-Cơ”. Khế lý là hợp về lý đạo, tu hành phải đúng theo kinh giáo của Phật. Khế-cơ là hợp về sự đạo, thực hành một pháp môn nhất định phải phù hợp với căn tánh của chúng sanh ở từng thời đại, từng nơi chốn. Nói rõ hơn, một phương pháp dù là chánh pháp đi nữa, muốn được diệu dụng phải thõa đáng hai điểm Lý và Sự. Nếu chỉ chạy theo lý đạo, không chú ý về sự tu, thì đối với hàng căn tánh thượng thừa có thể không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng còn hàng phàm phu mà đam mê lý cao đạo diệu, quá mong cầu chứng đắc thì coi chừng bị vọng tưởng mà gặp chướng nạn. Một khi lỡ bị chướng nạn rồi thì huệ mạng khó có cơ hội được cứu vãn!…
Ngài Ấn-Quang dạy: “Thuyết kinh giảng đạo cần phải chú ý đến căn tánh của đại chúng. Nếu nói điều không hợp căn cơ thì không những không có lợi gì cho Phật tử đồng tu, mà còn xui khiến họ vọng tưởng”. Vọng tưởng là sản phẩm từ vọng tâm. Tâm chơn ứng cảnh chơn, tâm vọng ứng cảnh vọng. Cảnh hão huyền ứng hiện ra, nhưng vì tâm đã vọng nên không thể phân biệt được chơn giả. Thật quá nguy hiểm!…
Khế cơ nếu mở rộng ra còn kèm theo “Khế Thời”, “Khế Xứ”. Khế thời là hợp với thời gian, khế xứ là hợp với không gian. Về thời gian thì thời này là mạt pháp, Phật dạy: “Ức triệu người tu hành khó tìm ra một người chứng đắc”, thì đưa ra đề tài chứng đắc trong thời này thật sự không phải đơn giản như sự lý luận trên giấy bút đâu. Khế xứ là nói đến hoàn cảnh, môi trường, phong tục, tập quán, văn hóa, v.v… Văn minh, khoa học, kỷ thuật càng cao thì căn tánh con người càng thấp, sự giác ngộ đường giải thoát càng yếu. Người có chút thông minh thế gian thì xa lìa Phật pháp, buông lời phỉ báng. Người muốn tu hành thì không vững đường tu, tâm ý mông lung, thường bị vọng tưởng.
Người yếu dạ hiếu kỳ thì dễ lầm mê vướng phải lưới ma.
Chính vì thế, đường tu tự chứng đắc thành tựu đạo giải thoát trong thời khó khăn lắm chứ không dễ dàng đâu. Vậy thì một pháp tu tập nào đó mà giúp cho đại chúng đạt được sự chứng đắc quá nhanh chóng, quá dễ dàng, nhất định cần phải nghiêm chỉnh xét lại rằng đó có phải thực sự là chứng đắc hay không, hay chỉ là những cảnh giới hư huyễn? Người Phật tử nên tự hỏi, chẳng lẽ lời Phật dạy không chính xác hay sao?
Người truyền bá pháp Phật cần nói đúng lý đạo để xiển dương Chánh Pháp, nhưng cũng cần nói lời hợp với căn cơ để người nghe khỏi bị lầm lẫn, ngăn ngừa sự vọng tưởng mới thực sự lợi lạc chúng sanh. Người thế gian thường vì danh văn lợi dưỡng nên sẵn sàng dùng đến phương thức tuyên truyền một chiều để đạt mục đích của mình. Ví dụ như đem chuyện tranh cử của thế giàn ra làm điển hình. Vì quyết lòng thắng cử thành ra người tranh cử sẵn sàng dùng đến phương thức, mà trong tiếng Anh gọi là “Misleading” (hướng dẫn lệch lạc), chứ người tu hành có tranh thắng với ai đâu mà triển khai một chiều. Như vậy muốn an toàn cho chúng sanh, một pháp phổ biến rộng rãi phải nói cả ưu điểm và khuyết điểm, phải nói cả thuận duyên và nghịch duyên thì mới toàn vẹn, nếu sơ ý lỡ gây điều bất lợi cho đại chúng thì nhân quả này thật là không nhỏ.
Để kết thúc đề mục này, Diệu Âm xin kể ra một chuyện có thực xảy ra cho chư vị cùng suy nghiệm. Vào năm 1999, có một vị Sư đến đến đạo tràng Tùng-Lâm Linh-Sơn của ngài Hòa Thượng Tăng Thống Thích Huyền-Vi, Hóa Chủ Giáo Hội Linh-Sơn Thế-Giới để dự khóa an cư kiết hạ. Vị này trước kia tu về thiền định, khi gặp pháp niệm Phật, ngài mới ứng dụng cách tự tu chứng của thiền định để niệm Phật cầu Nhất-tâm-bất-loạn. Công phu một thời gian thì vị đó tuyên bố đã chứng được Niệm-Phật Tam-Muội rồi, tai Ngài thường nghe tiếng Phật Hiệu tự phát ra, đã thấy được Phật hiện thân hướng dẫn.
Một buổi trưa nọ vị này không ra thọ trai. Đại chúng biết vị này thường ngày thích đóng của tự công phu một mình nên cũng không ai để ý tới. Đến khi thọ trai xong thì người ta mới phát hiện là vị đó đã âm thầm ra sau vườn treo cổ lên cây tự tử. Trước khi chết Ngài đã viết lại hai lá thư, đại ý nói rằng: Tôi niệm Phật đã được chứng đắc rồi, hôm nay đã tới ngày phải đi vãng sanh đây!…
Sự cố xảy ra quá bất ngờ làm rối loạn cả đạo tràng. Đến lúc đó mọi người mới giựt mình hiểu ra một sự thực rằng, những gì vị Thầy này cho là chứng đắc, những cảnh giới gì Thầy thấy được, nghe được đều là hư huyễn, không phải chơn thật. Thật quá dễ sợ!…
Tâm chơn ứng cảnh chơn, tâm vọng ứng cảnh vọng. Vọng cảnh ứng hiện đã gạt nhĩ căn, nhãn căn của mình một cách thê thảm mà chính Thầy không hề hay biết!… Bị gạt mà không hay nên Thầy đã quyết định sai lầm, làm điều không đúng chánh pháp, tự rước họa vào thân. Ấn Tổ nói: “Người muốn định thời hạn vãng sanh, nếu công phu đã thành thục thì không có chướng ngại gì. Bằng không, với cái tâm mong cầu ấy sẽ trở thành ma căn. Nếu như vọng niệm ấy kết thành một khối không gỡ bỏ được thì nguy hiểm vô cùng”.
Sự cố xảy ra đã chứng minh lời dạy của Ấn Tổ thật sự vô cùng chính xác.
Xin chư vị nhớ cho, Tín-Nguyện-Hạnh vãng sanh. Chớ nên lộ liễu mong cầu chứng đắc mà thành tựu được. Xin hẹn kỳ sau sẽ nói về “Vọng Tưởng”.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Diệu-Âm Minh Trị (Úc Châu)