Viêm gan C, mạn tính – Rối loạn về hệ gan và mật – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia
(Xem thêm the American Association for the Study of Liver Disease [AASLD]–Infectious Disease Society of America [IDSA] practice guidelines Recommendations for Testing, Managing, and Treating Hepatitis C and When and in Whom To Initiate HCV Therapy.)
Đối với viêm gan C mạn tính, điều trị được khuyến cáo cho tất cả các bệnh nhân, ngoại trừ những người có tuổi thọ ngắn do mắc đồng thời nhiều bệnh lý mà không thể điều trị bằng liệu pháp HCV, ghép gan hoặc một liệu pháp được chỉ dẫn khác.
Mục tiêu của điều trị là loại bỏ vĩnh viễn HCV RNA (tức là SVR), có liên quan đến việc bình thường hóa vĩnh viễn nồng độ aminotransferase và hạn chế tiến triển trên mô học. Kết quả điều trị thuận lợi hơn ở những bệnh nhân ít xơ hóa hơn so với những bệnh nhân bị xơ gan.
Ngọc trai & cạm bẫy
-
Phác đồ điều trị bằng interferon không còn được sử dụng để điều trị viêm gan C mạn tính, và ribavirin chỉ được sử dụng trong một số phác đồ thay thế.
Bảng
DAA không được sử dụng dưới dạng thuốc đơn mà được sử dụng trong các tổ hợp thuốc cụ thể để tối đa hóa hiệu quả.
Bảng
Những khuyến cáo hiện nay về điều trị HCV đang thay đổi nhanh chóng. Cập nhật hướng dẫn về viêm gan C 2019: Các khuyến nghị của AASLD–IDSA về xét nghiệm, xử trí và điều trị nhiễm vi rút viêm gan C có sẵn trực tuyến, được cập nhật thường xuyên.
Xơ gan mất bù do viêm gan C là bệnh lý thường được chỉ định ghép gan Ghép gan Ghép gan là loại ghép tạng đặc nhiều thứ hai. (Xem thêm Tổng quan về ghép tạng.) Chỉ định của ghép gan bao gồm Xơ gan (70% ca ghép ở Hoa Kỳ, 10 đến 20% trong số đó là do viêm gan C) Hoại tử… đọc thêm nhất tại Mỹ. HCV tái phát gần như tất cả trong mô ghép. Trước khi sử dụng DAA, khả năng sống sót của bệnh nhân và của mô ghép ít thuận lợi hơn so với khi cấy ghép được thực hiện cho các chỉ định khác. Tuy nhiên, khi sử dụng DAA, tỷ lệ SVR ở những bệnh nhân đã được ghép gan vượt quá 95% dù họ có bị xơ gan hay không. Do tỷ lệ SVR rất cao nên cấy ghép các cơ quan dương tính với viêm gan C đang được thực hiện ngày càng nhiều, đặc biệt là trong số những người nhận cũng dương tính với viêm gan C, do đó cần mở rộng nhóm người hiến tặng tiềm năng. Nếu người nhận và người hiến tặng đều dương tính với viêm gan C thì có thể hoãn điều trị cho đến khi ghép xong. Do đó, có thể tránh được một đợt điều trị tiền cấy ghép không cần thiết.
Phác đồ sofosbuvir/velpatasvir, elbasvir/grazoprevir hoặc glecaprevir/pibrentasvir hiện được coi là có hồ sơ an toàn tốt và có hiệu quả ở bệnh nhân mắc bệnh thận giai đoạn cuối, bao gồm cả bệnh nhân chạy thận nhân tạo.
Điều trị viêm gan C ở bệnh nhân xơ gan mất bù cần được thực hiện có sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa gan, tốt nhất là ở một trung tâm ghép gan. Phác đồ điều trị HCV bao gồm thuốc ức chế protease (những loại thuốc có đuôi -previr) không nên được sử dụng ở bệnh nhân xơ gan mất bù vì mức độ thuốc ức chế protease tăng lên ở bệnh nhân rối loạn chức năng gan.
Tái phát viêm gan B dẫn đến suy gan và tử vong đã được báo cáo trong hoặc sau khi điều trị HCV bằng DAA. Do đó, tất cả các bệnh nhân bị viêm gan C đang điều trị bằng DAA cần được kiểm tra xem có bằng chứng viêm gan B mạn tính hoặc viêm gan B trước đó hay không; các xét nghiệm nên bao gồm tất cả trong số những xét nghiệm sau:
-
Kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg)
-
Kháng thể bề mặt viêm gan B (anti-HBs)
-
Kháng thể IgG kháng lõi viêm gan B (IgG anti-HBc)