Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ – Wikipedia tiếng Việt
Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ (tiếng Pháp: Équipe de Belgique de football; tiếng Hà Lan: Belgisch voetbalelftal, tiếng Đức: Belgische Fußballnationalmannschaft) là đội tuyển cấp quốc gia của Bỉ do Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Bỉ quản lý.
Bỉ có trận đấu chính thức tiên phong vào ngày 1 tháng 5 năm 1904 là trận hòa 3-3 trước đội tuyển Pháp. Trước trận đấu này, đội tuyển tinh lọc của Bỉ có tranh tài vài trận, nhưng trong đội hình có một số ít cầu thủ Anh, do đó không được tính là trận đấu chính thức. Ví dụ Bỉ thắng Hà Lan 8-0 ngày 28 tháng 4 năm 1901 với sự xuất hiện của vài cầu thủ Anh. Sau trận đấu này, hai nước láng giềng Bỉ và Hà Lan có truyền thống lịch sử một năm đấu 2 trận khởi đầu từ năm 1905, thường được tổ chức triển khai ở Antwerp và Rotterdam ( sau chuyển sang Amsterdam ). Vào thời gian đó, đội tuyển Bỉ thường do 1 ban tuyển lựa quyết định hành động gồm đại diện thay mặt của 6 hoặc 7 câu lạc bộ lớn .
Biệt danh Những con quỷ đỏ của đội tuyển Bỉ do phóng viên Pierre Walckiers đặt cho sau trận thắng 3-2 trước Hà Lan (Rotterdam, 1906).
Hơn sáu thập kỉ sau, Bỉ trở thành một trong những đội bóng mạnh, tuy không vô địch các giải đấu lớn nhưng đối thủ không dễ vượt qua họ, kể cả ở sân nhà hay sân khách. Chìa khoá thành công của đội tuyển là việc sử dụng bẫy việt vị, một chiến thuật phòng ngự được phát triển trong thập niên 1960, ban đầu tại câu lạc bộ Anderlecht của huấn luyện viên người Pháp Pierre Sinibaldi.
Bạn đang đọc: Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ – Wikipedia tiếng Việt
Giai đoạn thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 là thời hạn mạnh nhất trong lịch sử vẻ vang của Bỉ. Thành tích cao nhất của họ trong quá trình này là á quân Euro 1980. Dưới sự chỉ huy của huấn luyện viên dày dạn kinh nghiệm tay nghề Guy Thys, người từng chỉ huy hơn 100 trận đấu chính thức, Bỉ nổi tiếng là 1 đội tuyển tổ chức triển khai tốt, thể lực sung mãn, 1 đối thủ cạnh tranh khó vượt qua .
Đội tuyển có những cầu thủ trình độ cao như thủ môn Jean-Marie Pfaff, hậu vệ phải Eric Gerets, tiền vệ Jan Ceulemans, và tiền vệ kiến thiết Enzo Scifo. Tuy có một vài trận đấu không tốt với các đối thủ yếu hơn, nhưng họ thường đấu hay khi gặp các đối thủ mạnh. Cho đến tận gần đây, năm 2002, các đội bóng hàng đầu thế giới cũng ngại chạm trán với Những con quỷ đỏ, thậm chí cả nhà vô địch World Cup 2002, đội tuyển Brasil cũng phải chật vật mới thắng Bỉ 2-0 ở trận đấu loại trực tiếp trong giải này. Tuy nhiên kể từ đó, đội tuyển Bỉ dần xuống phong độ, chưa tìm lại được danh tiếng thuở trước.
Sau khi thất bại tại vòng loại World Cup 2006 ( lần tiên phong sau 24 năm ), huấn luyện viên Aimé Anthuenis không được gia hạn hợp đồng, và René Vandereycken thay thế sửa chữa Anthuenis từ 1 tháng 1 năm 2006. Tuy vậy ông cũng không đưa được đội tuyển Bỉ vượt qua vòng loại Euro 2008, chỉ xếp thứ 5 ở bảng đấu loại .Bỉ hiện tại có hàng loạt cầu thủ trình độ như những tiền đạo Mirallas, Benteke, Lukaku, Batshuayi, những tiền vệ Fellaini, Witsel, Carrasco, Dembele, De Bruyne, Nainggolan, Mertens và Hazard. Hàng thủ thì có những Kompany, Vermaelen, Alderweireld, Vertonghen cùng những thủ môn Courtois và Mignolet .
Mục Lục
Giải vô địch quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Sự Open của Bỉ tại giải vô địch quốc tế ( World Cup ) phản ánh mức độ Open của năng lực ở trong nước tại từng thời gian, giống như ở những đội tuyển Cộng hòa Séc, Hà Lan, hay Thụy Điển. Bỉ đã 6 lần liên tục vượt qua vòng sơ loại World Cup Bỉ – ( từ 1982 đến 2002 ), thành tích chỉ kém Ý ( 12 lần ), Argentina ( 9 ) và Tây Ban Nha ( 8 ). Các đội tuyển khác có số lần vào vòng chung kết liên tục nhiều hơn không được tính do trong số đó có những lần không phải tham gia vòng loại vì là chủ nhà hoặc đương kim vô địch .Thi đấu một cách nỗ lực ở World Cup, đội tuyển Bỉ đã vượt qua vòng đấu bảng 5 trong 6 lần tham gia từ 1982 đến 2002, trong đó có 4 lần liên tục. Một trong những thắng lợi đáng nhớ nhất của họ là trận thắng đương kim vô địch Argentina 1-0 tại trận khai mạc World Cup 1982 tại Nou Camp .Bốn năm sau, họ có được thành tích tốt nhất ở World Cup trong lịch sử dân tộc, khi xếp hạng 4 chung cuộc ở World Cup 1986 với những cầu thủ điển hình nổi bật như Jan Ceulemans, Eric Gerets và Jean-Marie Pfaff. Bỉ giật mình thắng lợi đội bóng được ngưỡng mộ Liên Xô với những hảo thủ như Igor Belanov, Rinat Dasayev … 4 – 3 sau 2 hiệp phụ ở vòng 2, sau đó là Tây Ban Nha ở tứ kết. Tuy nhiên Bỉ chịu khuất phục trước đội vô địch giải Argentina 0-2 ở bán kết. Tại trận tranh giải ba, Bỉ thua Pháp 2-4 sau hai hiệp phụ. Đội trưởng tuyển Bỉ, tiền vệ Jan Ceulemans là cầu thủ Bỉ tiên phong được lựa chọn vào đội hình tiêu biểu vượt trội của một World Cup .
Mặc dù bị loại ngay từ vòng 2, màn trình diễn của Bỉ tại World Cup 1990 được đánh giá còn tốt hơn 4 năm trước. Ở trận đấu loại trực tiếp, Bỉ chiếm ưu thế trước Anh, chỉ thua ở những phút cuối của hiệp phụ bởi bàn thắng của David Platt. Enzo Scifo nhận giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất và cầu thủ xuất sắc thứ nhì sau Lothar Matthäus.
Tại World Cup 1994, Bỉ thua đương kim vô địch Đức tại vòng 2. Trận đấu đáng nhớ bởi 1 quyết định hành động gây tranh cãi của trọng tài Kurt Röthlisberger. Bỉ không được 1 quả phạt đền khi Josip Weber bị chèn ngã trong vòng cấm. Michel Preud’homme được bầu là thủ môn xuất sắc nhất giải và có tên trong đội hình tiêu biểu vượt trội .Ở World Cup 1998, Bỉ cùng đội vô địch Pháp là 2 đội không thua 1 trận đấu nào. 3 trận hòa ở vòng bảng trước Hà Lan, Mexico và Nước Hàn không đủ giúp họ vào vòng sau. Tại giải này Enzo Scifo và Franky Van Der Elst tham gia World Cup lần thứ 4, lập kỉ lục của Bỉ .
Bỉ khởi đầu World Cup 2002 không thật suôn sẻ, nhưng đội bóng tiến bộ qua từng trận đấu. Đội trưởng Marc Wilmots ghi bàn trong cả ba trận đấu vòng bảng. Ở vòng 2 họ gặp phải nhà vô địch của giải Brasil. Giống như năm 1994, kết quả trận đấu bị ảnh hưởng bởi quyết định không chính xác của trọng tài. Ngay cả người Brasil cũng ngạc nhiên khi trọng tài Peter Prendergast không công nhận bàn thắng mở tỉ số của Marc Wilmots. Kết cục Bỉ thua 0-2. Huấn luyện viên Brasil Luiz Felipe Scolari thừa nhận sau giải rằng Những con quỷ đỏ là đối thủ khó khăn nhất của Brasil ở giải này. Bỉ giành được giải thưởng fair-play (cho đội bóng chơi đẹp). Marc Wilmots cân bằng kỉ lục tham dự 4 kì World Cup của Enzo Scifo và Franky Van Der Elst, tuy nhiên lần tham dự đầu tiên Wilmots không được ra sân. Wilmots cũng lập kỉ lục ghi bàn cho Bỉ tại các kì World Cup với 5 bàn thắng.
Sau World Cup 2002, phong độ đội tuyển không tốt khi họ không vượt qua vòng sơ loại ở 2 kỳ World Cup 2006 và 2010. Năm năm trước, với lứa cầu thủ năng lực mới, Bỉ lọt vào đến tứ kết nhưng để thua Argentina. World Cup 2018 là bước ngoặt lớn khi những lứa cầu thủ đội này đã giành được huy chương đồng của một kỳ World Cup
Năm | Thành tích | Thứ hạng* |
Số trận |
Thắng | Hòa** | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1930 | Vòng 1 | 11 | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 4 |
Vòng 1 | 15 | 1 | 0 | 0 | 1 | 2 | 5 | |
1938 | Vòng 1 | 13 | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 3 |
1950 | Bỏ cuộc | |||||||
Vòng 1 | 12 | 2 | 0 | 1 | 1 | 5 | 8 | |
1958 đến 1966 | Không vượt qua vòng loại | |||||||
1970 | Vòng 1 | 10 | 3 | 1 | 0 | 2 | 4 | 5 |
1974 đến 1978 | Không vượt qua vòng loại | |||||||
1982 | Vòng 2 | 10 | 5 | 2 | 1 | 2 | 3 | 5 |
1986 | Hạng 4 | 4 | 7 | 2 | 2 | 3 | 12 | 15 |
1990 | Vòng 2 | 11 | 4 | 2 | 0 | 2 | 6 | 4 |
1994 | Vòng 2 | 11 | 4 | 2 | 0 | 2 | 4 | 4 |
1998 | Vòng 1 | 19 | 3 | 0 | 3 | 0 | 3 | 3 |
2002 | Vòng 2 | 14 | 4 | 1 | 2 | 1 | 6 | 7 |
2006 đến 2010 | Không vượt qua vòng loại | |||||||
2014 | Tứ kết | 6 | 5 | 4 | 0 | 1 | 6 | 3 |
2018 | Hạng ba | 3 | 7 | 6 | 0 | 1 | 16 | 6 |
2022 | Vượt qua vòng loại | |||||||
2026 | Chưa xác định | |||||||
Tổng cộng | 14/22 | 1 lần hạng 3 |
48 | 20 | 9 | 19 | 68 | 72 |
- *Thứ hạng không chính thức dựa trên vòng đấu mà đội bóng lọt vào và điểm số đạt được với các đội bóng cùng vào một vòng đấu.
- **Tính cả các trận hòa ở các vòng đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.
Thế vận hội[sửa|sửa mã nguồn]
Bỉ từng đoạt huy chương vàng môn bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 1920 và huy chương đồng Thế vận hội Mùa hè 1900 .
- (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Năm | Thứ hạng |
Số trận |
Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1900 | Hạng ba | 1 | 0 | 0 | 1 | 2 | 6 |
1904 đến 1912 | Không tham dự | ||||||
1920 | Huy chương vàng | 3 | 3 | 0 | 0 | 8 | 1 |
1924 | Vòng 2 | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 8 |
1928 | Tứ kết | 3 | 1 | 0 | 2 | 9 | 12 |
1936 đến 1976 | Không tham dự | ||||||
1980 đến 1984 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
1988 | Không tham dự | ||||||
Tổng cộng | 1 lần vô địch |
8 | 4 | 0 | 4 | 20 | 27 |
Giải vô địch châu Âu[sửa|sửa mã nguồn]
Thành tích của Bỉ tại Giải vô địch bóng đá châu Âu tốt hơn so với World Cup. Thành tích tốt nhất của họ là ngôi á quân năm 1980 tại Ý sau khi thua sát nút 1-2 trước Tây Đức tại trận chung kết. Bỉ là chủ nhà (hoặc đồng chủ nhà) 2 lần, xếp thứ ba năm 1972 và gây thất vọng trong năm 2000 khi là đội chủ nhà đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng.
Xem thêm: Vườn quốc gia – Wikipedia tiếng Việt
Sau Euro 2000, phong độ đội tuyển không tốt khi họ không vượt qua vòng sơ loại ở 3 kỳ Euro 2004, 2008 và 2012. Năm năm nay và 2020, với lứa cầu thủ kĩ năng mới, Bỉ lọt vào đến tứ kết nhưng để thua xứ Wales và Ý .
Năm | Thành tích | Số trận | Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1960 đến 1968 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
1972 | Hạng ba | 2 | 1 | 0 | 1 | 3 | 3 |
1976 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
1980 | Hạng nhì | 4 | 1 | 2 | 1 | 4 | 4 |
1984 | Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 4 | 8 |
1988 đến 1996 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
2000 | Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 2 | 5 |
2004 đến 2012 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
2016 | Tứ kết | 5 | 3 | 0 | 2 | 9 | 5 |
2020 | Tứ kết | 5 | 4 | 0 | 1 | 9 | 3 |
2024 | Chưa xác định | ||||||
Tổng cộng | 6/16 1 lần á quân |
22 | 11 | 2 | 9 | 31 | 28 |
UEFA Nations League[sửa|sửa mã nguồn]
Thành tích tại UEFA Nations League | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Mùa giải | Hạng đấu | Bảng | Pos | Pld | W | D | L | GF | GA |
2018–19 | A | Vòng bảng | 5th | 4 | 3 | 0 | 1 | 9 | 6 |
2020–21 | A | Hạng tư | 4th | 8 | 5 | 0 | 3 | 19 | 11 |
2022–23 | A | Vòng bảng | 7th | 6 | 3 | 1 | 2 | 11 | 8 |
Tổng cộng | 1 lần hạng tư |
3/3 | 18 | 11 | 1 | 6 | 39 | 25 |
- Hạng ba: 2018
- Á quân: 1980
- Hạng ba: 1972
Cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Jan Vertonghen là cầu thủ khoác áo đội tuyển Bỉ nhiều nhất với 141 trận.
Tính đến 27 tháng 9 năm 2022, 10 cầu thủ khoác áo đội tuyển Bỉ nhiều lần nhất là :
Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Romelu Lukaku là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển Bỉ với 68 bàn.
Tính đến 27 tháng 9 năm 2022, 10 cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển Bỉ là :
Đội hình hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]
Đội hình 26 cầu thủ đã hoàn thành UEFA Nations League 2022–23.
Số liệu thống kê tính đến ngày 25 tháng 9 năm 2022 sau trận gặp Hà Lan.
Triệu tập gần đây[sửa|sửa mã nguồn]
- Chú thích
- COV= Cầu thủ rút lui vì dương thế COVID-19
- INJ= Không được triệu tập do chấn thương
- WD= Rút lui do chấn thương
- PRE= Đội hình sơ bộ
- RET= Đã chia tay đội tuyển vương quốc
Huấn luyện viên[sửa|sửa mã nguồn]
Trước năm 1910, một hội đồng của Thương Hội bóng đá Bỉ đứng ra lựa chọn cầu thủ .
- ^
Lỗi chú thích: Thẻ
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên
RSSSF BelIntRec
- ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 6 tháng 10 năm 2022 .
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://dvn.com.vn/
Category : National