Người Êđê – Wikipedia tiếng Việt – Chia Sẻ Kiến Thức Điện Máy Việt Nam

Người Êđê (tiếng Êđê: Anak Radaya hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là Anak Đê hay Đê-Ga) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và đông bắc Campuchia. Tại Việt Nam người Ê Đê được công nhận trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.[3][4] Theo trang Joshua Project tổng dân số người Ê Đê năm 2019 là 402 ngàn người, cư trú chủ yếu tại Việt Nam và Campuchia.[1] Người Ê Đê nói tiếng Ê Đê, một ngôn ngữ thuộc phân nhóm ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ chi Malay-Polynesia của ngữ hệ Nam Đảo. Người Ê Đê thuộc nhóm chủng tộc Austronesia.

Trước năm 1975, tại miền nam Việt Nam, trong văn bản hành chính của Việt Nam Cộng hoà, người Ê Đê được gọi là người Raday (Rhade). Theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc Chính phủ Việt Nam dân số người Ê Đê thống kê ngày 01/04/2009 là khoảng 331.194 người, xếp thứ 11 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.[5] Người Ê Đê hiện nay khá đặc trưng, nổi bật là một cộng đồng có xu hướng tương đối thống nhất ý thức dân tộc, cũng là một cộng đồng dân tộc-tôn giáo khá rõ nét với hơn 70% dân số ảnh hưởng của đạo Tin Lành.[6]

Lịch sử, nguồn gốc và tên gọi Anak Đêga ( Êđê )[ sửa | sửa mã nguồn ]

Truyền thuyết của người Êđê kể lại rằng : Một người thủ lĩnh ( Krung ) từ Ấn Độ tên là Radaya ( Y-Đê ) đến xứ sở của công chúa mẹ Xứ Sở tên là Nagar ( H-Gar ). Radaya đã chinh phuc được xứ sở của Nagar sau đó kết hôn với công Chúa mẹ Xứ sở Nagar được phong làm Krung. Con cháu hâu duệ của họ được gọi là Anak Kudaya Nagar sau này rút gọn âm lại thành Anak Đê Gar có nghĩa là con cháu của thủ lĩnh Ấn Độ Kudaya ( Y-Đê ) với Công Chúa xứ sở Nagar ( H-Gar ). Đây là thần thoại cổ xưa khá thông dụng ở dân cư địa phương Khu vực Đông Nam Á để lý giải nguồn gốc cội nguồn .
Yang Prong hay Yang Ya H’leo tại Ea Sup- Đăk Lăk trong bia ký Champa là Ya Hliêv, Ngôi tháp được xây dựng dưới Triều Đại Pô Đê wađa Swor- Pô Đê -Jaya Simhavarman III tức Chế Mân (R’čăm Mâl hay Êčăm mâl,ngôi tháp được xây dựng để dâng cúng Thần Vĩ Đại của người Rang Đê cổ, trong thời kì kháng chiến chống Mông- Nguyên cuối thế kỉ XIII

Phù điêu mô tả thủy binh người Rang Đêy trong đoàn quân Champa, quân lính thủy binh mặc trang phục khá đặc trưng:Đầu quấn khăn đỏ, thả hai đuôi khăn về phía trước trán, mặc áo hở ngực, đóng khố kơtel, tay trái cầm Khiêl, tay phải cầm gươm, giáo đang vượt hồ Tonlé Sap viễn chinh Campuchia cuối năm 1177 tại đền Bayon -Siêm Riệp. Ngay này, Điệu múa Khiêl (múa võ) vẫn được người Ê Đê duy trì trong các nghi lễ:Cúng bến nước, lễ rước ghế Kpan (thuyền)…Để tưởng nhớ tổ tiên ra trận,trong các bài cúng Bến nước Êđê luôn có câu:(Cầu xin dòng nước… Chúng tôi hiến tế cho Ông Bà tổ tiên xưa mới đây,cho tổ tiên xưa cho các chiến binh của chúng tôi…)

Bạn đang đọc : Người Êđê – Wikipedia tiếng Việt

Vào đầu công nguyên, xuất hiện hai vương quốc của người Malayo – Polynesia lớn trên bán đảo Ðông Dương: Phù Nam và Chiêm Thành. Lãnh thổ Phù Nam rộng từ Vịnh Thái Lan đến Biển Hồ nhưng ảnh hưởng tỏa lên Thượng Lào và Bắc Miến Ðiện. Chiêm Thành gồm nhiều vương quốc nhỏ sinh hoạt độc lập với nhau dọc các đồng bằng eo hẹp miền Trung đến chân dãy Trường Sơn về phía Tây: Lâm Ấp hay Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Aryaru (Phú Yên), Kauthara (Khánh Hòa) và Panduranga (Phan Rang). Sinh hoạt chính của người Malayo – Polynesia là trồng lúa nước và buôn bán. Ðể tìm thêm nguồn hàng quí hiếm trao đổi với các thuyền buôn, người Malayo – Polynesia mở rộng tầm kiểm soát lên các vùng rừng núi đồng thời khuất phục luôn các nhóm dân cư bản địa đã có mặt từ trước, điển hình điển hình nhóm Bih ven Krông Ana mà ngày nay được gọi là ÊĐê Bih với kỹ năng dệt, trang sức, làm gốm, trồng lúa nước. Nhóm Bih là nhóm Malayo – Polynesia định cư và chạy nạn sớm vào sâu nhất trong lục địa, họ đem theo kỹ thuật trồng lúa nước ven sông,dệt vải thô, trang sức hạt, và kỹ nghệ làm gốm thô. Theo chiều lịch sử, danh tự Ê Đê có nguồn gốc từ cách đọc âm của người Champa, bia ký Champa cổ nhất tại tháp Po Nagar vào khoảng thế kỷ VIII đã ghi chép về tộc danh Rang Đê vùng sông Nha Trang, sông Jing, sông Hing. Những bia ký sớm nhất của Champa thế kỷ VIII – đã có nhắc đến nhóm Rangde ven sông Ea trang (Nha Trang). Trong Bia Po Nagar được dựng năm 965 tại tháp Po Nagar (Nha Trang, Khánh Hòa): Nội dung bia như sau:Vào khoảng năm 703 – 706 lịch saka (781 – 784 Công lịch), vua Satyavarman cho dựng một linga (linh vật) thờ thần Siva và lập cháu mình lên làm vua Vikrantavarman(vì theo chế độ mẫu hệ nên cậu truyền ngôi cho cháu theo dòng mẹ)… và đức Vua có thu phục được người Randaya (Rang Đê).Rất có thể từ Rang Đê sau này bị biến âm thành Raday, Raday hay Êđê.
Ngoài ra, người Ê đê còn tự nhận là nhóm tộc Đêga, Êđê Êga Anak Đêga – người trên Cao Nguyên. Đêga là từ tiếng Ấn Độ srakrit Deccan, và bản thân nó lại có nguồn gốc từ tiếng Phạn दक्षिण, Đêkṣarṇa, nghĩa là “cao nguyên phía nam”.[7]

Bia ký Tháp Pô Nagar dưới đời Vua Satyavarman vị vua đổi tên nứớc từ Lâm Ấp Hoàn Vương thành Campa’Degar – Campa’nagar (Chiêm Thành) sau khi thống nhất các bộ lạc Nam Đảo ở miền trung Việt Nam ngày nay. Bia chữ phạn dựng Vào khoảng năm 703 – 706 lịch saka Ấn-Độ (781 – 784 Công lịch) có nhắc đến công lao của Đức Vua có công chinh phục các bộ lạc Rang Đê ven sông Nha Trang (Ea Trang), Sông Jing(Krông Jing), Sông Hinh (Krông Hing). Hiện đang lưu giữ tại bảo tàng lịch sử Việt Nam.

Người Ê Đê Bih đánh bắt cá cá trên sông Krông Ana ( Srepok )

Ðến cuối thế kỷ VII, quân Java của Indonesia từ Biển Ðông lại tràn vào đánh phá Ea ryu (Phú Yên) và Kauthara- Ea Trang (Khánh Hòa), một phần lớn dân chúng Chiêm Thành đã chạy lên cao nguyên M’Đrak tị nạn mang theo những văn hóa tập tục mẫu hệ, kiến trúc, trồng trọt và ngôn ngữ Chiêm Thành giai đoạn sơ khai có yếu tố Ấn Độ hóa hơn mà tạo thành các nhóm Raday. Người Rang Đê được cho là tổ tiên của người Eđê và Jarai,đã được ghi chép khá nhiều trong các bia ký Champa. Vào năm 1283, quân Mông Cổ tràn xuống xâm lăng Champa. Trước đoàn quân hùng mạnh của Mông Cổ, vua Champa quyết định rút quân lên vùng Tây nguyên để ẩn náu. Theo ông Marco Polo, một nhà du hành Âu Châu, vua Champa chịu bỏ trống toàn bộ lãnh thổ đồng bằng cho quân Mông Cổ chiếm đóng. Trong suốt hai năm chờ đợi không giao chiến, vì thiếu lương thực, quân Mông Cổ tự rút lui ra khỏi Champa. Rất có thể là trước sự xâm lược của đế quốc Mông Cổ, sau này là cuộc Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Raday có trước, từ đó tạo ra nhóm tộc người mới Anak Jarai lấy từ tên Pô Kurung Garai với hàm ý là những người Raday theo Vua Chế Mân chống xâm lược Mông Cổ. Trích diễn biến lịch sử như sau: Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tông dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thắt thủ, vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Champa bị bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là hoàng tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI duy trì giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần rút quân về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa. Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con người chị (công chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm 1266, hoàng tử ChayNuk, con Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman V. Indravarman V tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một liên minh chống lại quân Mông Cổ. Hay tin này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn thủy binh từ Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về Trung Quốc triều cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt Chiêm Thành dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên (Trung Quốc) năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm thống đốc toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành, tiểu vương Champa nào chịu theo quân Nguyên đều được phong làm phó vương. Hoàng tử Harijit Pô Đêwađa Svor (hay Pô Đêpitathôr) hay còn gọi là Pô Đê con Indravarman V, cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng núi về Ea Hleo theo đoàn quân hộ tống Rang Đê, tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người Rang Đê sinh sống trên cao nguyên Ya Heou (Eâ Hleo), tấn công quân Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển Ea ryu (Tuy Hòa-Phú Yên ngày nay) và vào cửa sông Krông Ea Drăng (Sông Đà Rằng,Sông Ba,Iapa, Ea Pa, Krong Pa) đổ bộ lên cao nguyên Madrak, Ea H’Leo (Tây Nguyên) nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ – một phần bị bệnh tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới, một phần vì đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa – phải rút về trấn giữ đồng bằng.Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau Chiêm Thành hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người sang thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn trên cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chư Hala, gọi là đồi Trầu, để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Pô Kurung Garai (Tháp Chàm Phan Rang). Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong gần sông Êâ H’leo (Êa Sup- Tây Bắc Đăk Lăk ngày này) để đón nhận phẩm vật dâng cúng vua của người Raday trên Tây Nguyên.

Một loại thuyền độc mộc của người ÊĐê ở làng Buôn Đôn

Vào năm 1471 Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép về sự kiện người Chămpa đầu hàng quân Đại Việt của Vua Lê Thánh Tông như sau: Một lúc sau, đứng xa trông thấy toán quân đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp trên mặt thành, bèn bắn luôn ba tiếng pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ quân thần võ phá cửa đông thành tiến vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt được hơn ba vạn tù binh và chém được hơn bốn vạn thủ cấp. Ngô Nhạn dẫn tướng đầu hàng là bác ruột Trà Toàn tên là Bô Sản Ha Ma. Lê Thánh Tông sai trưng bày những thứ người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến xin hàng mà ở Đại Việt không có, sai viên quan đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp bạc, hình như thanh kiếm, vua hỏi vật gì. Hoàn trả lời rằng đó là đồ của nước Chiêm từ xưa, người làm quốc vương phải có vật đó để truyền cho con cháu. Quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho Trà Toàn được sống. Hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 3 âm Lịch (1471).cuộc Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Rang đê có trước, từ đó hình thành ra nhóm tộc người mới Anak Jarai.Nhóm Rang Đê vùng thung lũng sông Ba tự gọi mình là Ană Garai. Ană Pô Garai chính là cụm danh xưng Ană Pô Kurung Garai (Pô Krung Grai là cách gọi tôn xưng thái tử Champa là Harijit (Rochom Mal) lãnh đạo người Raday đánh đuổi Mông Cổ. Kurung hay Krung trong ngôn ngữ Raday và Malay cổ có nghĩa là thủ lĩnh. Dần dần, Pô Krung Garai hay Pô KLong Garai phiên âm thành Jarai. Jarai tách khỏi khối bộ tộc Raday để tự nhận mình là Anăk Jarai với ý nghĩa là những đứa con của Vua Chế Mân (Pô Krung Grai, Pô Klong Grai hay anak Jarai,DRai)

Tiểu quốc Jarai ( tên gọi khác : Ala Čar Pơtao Đêga / Dhung Vijaya / Nam Vijaya / Nam Bàn / Nam Phan / Nam Phiên / Chămpa Thượng ) là một tiểu quốc cổ của những bộ tộc Nam Đảo ở Tây Nguyên, Nước Ta với bộ tộc nòng cốt là người Ja Rai và người ÊĐê hình thành từ khoảng chừng cuối thế kỷ XV và chấm hết sự sống sót sau khi phân rã ra thành những bộ tộc độc lập vào khoảng chừng chừng cuối thế kỷ XIX.Tiểu quốc này được quản trị bởi những vị tiểu vương mà người Việt gọi là Thủy Xá – Hỏa Xá tức là Pơtao Apui – Pơtao Êa. Theo tương truyền những vị Vua là hiện thân của Thần Gươm Y Thih ( nhân vật trong những thần thoại cổ xưa cổ xưa của người người Ê đê và Jarai. Một tài liệu khác ghi là 20 ” đời vua ” tiểu quốc Jrai, là người kế tục giữ gươm thần do chàng Y Thih để lại. Có kiến khác cho rằng gươm thần của những Pơ tao thực ra là những bảo vật truyền ngôi của hoàng gia Chăm Pă sau khi Lê Thánh Tông hủy hoại thành Vijaya ( Đồ bàn, Tỉnh Tỉnh Bình Định ). Xét về hình thái tộc người Rhade ( Ê Đê ) lui về phía nam và cùng những nhóm Jarai thực ra la một dân tộc bản địa địa phương Rang Đê ], hai nhóm tộc người này bị phân li do nguyên do lịch sử vẻ vang vẻ vang mà trong tiếng Jarai gọi là thời kỳ tiah Phara. Nghĩa là cuộc phân ly bạn hữu. Hiện nay, những nhóm dân cư Ê đê nhận tự thân là Anak Aê Diê, đọc chệch thành Anak Ê Đê – những người con do trời sinh ra, vì cho rằng vị thần tối cao của họ là A.Ê – D.I.Ê nghĩa là Thượng đế theo thần thoại cổ xưa thần thoại cổ xưa của người Ê Đê được lưu truyền đến thời nay .

Dân số và địa phận cư trú[ sửa | sửa mã nguồn ]

Dân tộc Ê Đê gồm có khoảng chừng gần 50 % triệu ( ~ 490.000 người ) đang sinh sống ở những nước trên quốc tế như Campuchia, Nước Ta, xứ sở của những nụ cười thân thiện, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Phần Lan, Thụy Điển … Trong đó miền trung cao nguyên của Nước Ta là quê nhà địa phương truyền kiếp của người Ê Đê. Đây là nhóm dân tộc bản địa địa phương có nguồn gốc từ nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai từ những hải đảo Thái Bình Dương đã Open truyền kiếp ở Đông Dương ; truyền thống lịch sử cuội nguồn dân tộc bản địa địa phương vẫn mang đậm nét mẫu hệ biểu lộ dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng Malay-Polynesia. Các nhóm địa phương gồm có những nhóm :

  • Êđê Kpă (tự nhận là chính dòng Đê). Cư trú quanh thành phố Buôn Ma Thuột, Krông Ana, Krông Pač, Čư̆ Mgar. Là ngôn ngữ chuẩn có chữ viết của người Ê-đê.

– Họ chính của Êđê Kpă : Niê, Buôn Yă ( Byă ), Êban, Niê Kdăm …

  • Êđê Adham xuất phát từ chữ Ân-Độ là Adaham có nghĩa là vùng trũng đệm, pha tạp.Êđê Adham cư trú tại huyện Krông Bŭk, Čư̆ Mgar, Thị xã Buôn Hồ, Krông H-Nang và một phần Êa Hleo của tỉnh Dak Lak

– Họ của Êđê Adham : Êya, Kpơr, Kbuôr .. vvv

  • Êđê Mdhŭr xuất phát từ chữ Ân-Đô là Madahura có nghĩa là vùng cằn cỗi, vùng đất thấp. Êđê Mdhur cư trú tại huyện Mdrak của phía đông tỉnh Dak Lak, Sông Hinh của tỉnh Phú Yên.

– Họ của người Êđê Mdhur : Hra, Lemo, Rơ Ô …

  • Êđê Bih là nhóm Rang Đê cổ nhất bảo lưu nhiều dấu vết cổ qua ngôn ngữ, Êđê Bih có truyền thống làm gốm, dệt chiếu, trồng lúa nước, đặc biệt các phụ nữ có điệu múa mang tên Rom Wŏng (Kdŏ Dar), Kông Tuôr. Họ Cư trú ven sông Krông Ana, sông Krông Knô của tỉnh Đak Nông. Một số vẫn đang gần hang Băng Adrênh, Xung quanh hồ Êa Kao, hồ Lăk, tại các huyện Krông Bông, Buôn Đôn, Cư Kuiñ.

Họ của người Êđê Bih : BuônDăp ( Bdap ), Hdruĕ, Êñuôl, Hđơ ̆ k, Buôn Krông ( Bkrông ), Hlŏng, Kmăn, Hmŏk, Knul, Êčăm …

  • Êđê Krung xuất phát từ chữ Kurung trong ngôn ngữ Rang Đê cổ, Khi vua Chế Mân, Chế Bồng Nga mộ lính đi đánh giặc họ tự gọi các thủ lĩnh đó là Kurung hay Krung. Cư trú chủ yếu tại huyện Êa Hleo, Krong Buk của tỉnh Dak Lak.

– Họ Êđê Krung : Mlô, Ktla, Aliô, Kđoh, Mdrang, Adrơng, Ksơr, Kpă … vvv Ngoài ra còn có những nhóm địa phương nhỏ khác : Blô, Dongmak, Hwing, Êban … Nhưng hầu hết người Êđê không có sự khác biết lớn giữa những nhóm địa phương. Người Êđê là nhóm dân tộc bản địa địa phương có xu thế thống nhất ý thức tộc người, thể hiện rõ nét nhất là ranh giới độc lạ giữa những nhóm địa phương sống sót trước kia thì thời nay đã toàn vẹn bị xóa bỏ bằng việc thống nhất tôn giáo, ngôn từ và chữ viết và người Êđê tự gọi họ là Anak Đê đọc tránh từ Anak Aê-Diê, nghĩa là những đứa con của Yàng ( Thần Linh ). Theo Tổng khám phá dân số và nhà ở năm 2009, người Êđê ở Nước Ta có dân số 331.194 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Êđê cư trú tập trung chuyên sâu nâng cao tại tỉnh :

Đặc điểm kinh tế tài chính[ sửa | sửa mã nguồn ]

Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông. Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chủ trương luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để hồi sinh sự phì nhiêu. Ngày nay người Ê Đê gắn mình với sản xuất nông sản cây công nghiệp : cafe, cao su đặc đặc, hồ tiêu, ca cao, … Nghề trồng trọt ở đây có nuôi trâu, bò, voi. Người dân ở đây còn tự làm ra được đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức đẹp đẹp, đồ gốm .

Hôn nhân mái ấm gia đình[ sửa | sửa mã nguồn ]

Trẻ em người Ê ĐêTrong mái ấm gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ theo đó của cải và đất đai sẽ được truyền từ mẹ sang con gái, theo chính sách mẫu hệ có đặc thù rất khá tương đương với chính sách mẫu hệ của người Minangkabau ở hòn đảo Sumatra của Indonesia, con cháu mang họ mẹ, trước đây con trai không được hưởng thừa kế, giờ đây có sự bình đẳng trong nhà. Phụ nữ chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trong quản trị mái ấm gia đình, chăm nom con cháu, mồ mả tổ tiên, của cải thừa kế cho con cháu … Đàn ông chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc ngoại giao, giao lưu kinh doanh với hội đồng bên ngoài đồng thời những yếu tố tôn giáo và chính trị cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm của người đàn ông. Cho nên vai trò và vị thế của đàn ông Ê đê bên ngoài xã hội là rất lớn. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai sửa chữa thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân trong gia đình của mái ấm gia đình mẹ đẻ. Chỉ con gái được thừa kế gia tài, người con gái út được thừa kế nhà tự ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già. Đây là nét tác động ảnh hưởng từ pháp luật của xã hội từ thời phong kiến Chămpa mà người Ê đê chịu tác động ảnh hưởng trong suốt thế kỷ dài trong lịch sử vẻ vang .
Người Êđê có kho tàng văn học truyền miệng nhiều mẫu mã : truyền thuyết thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt quan trọng là những Khan ( trường ca, sử thi ) nổi tiếng với Khan Dam San, Khan Dam Kteh Mlan, khan Dam Khing Jŭ, … Người Êđê yêu ca hát, múa Rom Wong ( kdŏ dar ) uyển chuyển, múa kông tuôr, thích tấu nhạc và thường rất có năng khiếu sở trường về nghành nghề dịch vụ này. Nhạc cụ có cồng chiêng, trống, sáo, Gôc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đĭng Buôt là những loại nhạc cụ phổ cập của người Êđê và được nhiều người yêu thích .

Đặc tính tâm ý trong văn hóa truyền thống[ sửa | sửa mã nguồn ]

Người Ê Đê có lòng trung thực, kiên trì với sự khó khăn vất vả khó khăn vất vả, chịu đựng nhọc nhằn trong lao động, Chăm chỉ, nhiệt tình trong việc làm, nhưng dễ làm mưa làm gió chống lại khi bị chèn ép và áp bức. Điều này đã dẫn chứng trong suốt ngàn năm lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa đấu tranh bảo vệ hội đồng của người Êđê. Vì vậy so với người ÊĐê, dù chỉ một lần thôi thì cũng đủ để mất hết lòng tin thậm chí còn còn dẫn đến hiềm khích lê dài đến cả thế hệ sau .

Đôi nét về nhân chủng[ sửa | sửa mã nguồn ]

Người Ê Đê chiếm 17 % dân số tại tỉnh Đăk Lăk. Dân tộc này nằm trong nhóm những tộc người sử dụng ngôn từ Malay-Polynesia, sống trên khắp Khu vực Đông Nam Á. Đa số người Ê Đê ngày này là Fan Hâm mộ Tin Lành – một tôn giáo gia nhập hòa trộn nhiều thành phần tín ngưỡng dân gian địa phương, và người Ê Đê không có tục thờ cúng tổ tiên. Người Ê Đê thường có vẻ bên ngoài nổi bật của người Khu vực Đông Nam Á, trông gần giống người hải đảo Indonesia, Philippin và Malaysia. Tuy nhiên, người Ê Đê không thuần chủng, hình thức bề ngoài có nhiều nét khác nhau, đó là do tác dụng của nhiều thế kỉ trộn lẫn với người Ấn Độ thời xưa, người M’nông thuộc ngôn từ Môn-Khmer, người Pháp thời thuộc địa, và người Việt .
Nhà dài của người Ê Đê Một bến nước của người Ê Đê ở Cư Mgar

Phương tiện liên quan tới Nhà người Ê Đê tại Wikimedia Commons

Tộc người Ê Đê vốn thuộc nhóm dân cư ngôn từ Malay-Polynesia, có nguồn gốc truyền kiếp từ vùng biển. Mặc dù đã chuyển cư vào miền trung Nước Ta hàng ngàn năm trước, và di cư lên Tây Nguyên khoảng chừng sớm nhất vào cuối thế kỷ VIII đến thế kỷ XV nhưng trong sâu thẳm văn hóa truyền thống của người Ê Đê, bến nước và con thuyền là những hình ảnh chưa hề phai nhạt. Nhà sàn Ê Đê có hình con thuyền dài, cửa chính mở phía trái nhà, hành lang cửa số mở ra phía hông. Bên trong nhà có trần gỗ hình vòm giống hệt mui thuyền. Có nhiều buôn Ê Đê phong phú với hàng trăm ngôi nhà dài trông như một hạm chiến thuyền Nam Đảo đang rẽ sóng giữa quốc tế biển hòn đảo, đây là nét đặc trưng có hầu hết ở những tộc người nói tiếng Mã Lai. Nhà người Ê Đê thuộc mô hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 m tùy theo mái ấm gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của những dân cư khác ở Tây Nguyên. Là nhà của mái ấm gia đình lớn theo chính sách mẫu hệ. Bộ khung cấu trúc đơn thuần. Cái được coi là đặc trưng của nhà Ê Đê là : hình thức của cầu thang, cột sàn và cách sắp xếp trên mặt phẳng hoạt động và sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, hoạt động và sinh hoạt chung của cả nhà dài, nhà bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài ( Kpan ) ( tới 20 m ), chiêng ché, … nửa còn lại gọi là Ôk là nhà bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của những đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là ” trên ” chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt nhà bếp. Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang .
Có vừa đủ những thành phần, chủng loại phục trang và phong thái thẩm mỹ và nghệ thuật khá tiêu biểu vượt trội cho những dân tộc bản địa khu vực Tây Nguyên. Y phục truyền thống của người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà trùm khăn lên đầu, mặc áo, quấn váy ( iêng ). Người Đàn ông Êđê ( Radaya ) rất lâu rồi phân biệt rất rõ về vị thế, ngoài phục trang truyền thống gồm có Ao Kiêr Nut ( áo liền nút ), khố kteh và đầu quấn khăn ( Păn Ka-Ưm ) được binh lính và nông dân những tầng lớp thấp mặc, thì những thủ lĩnh ( Krung ) hay quý tộc Êđê ( Radaya ) thường mặc Čhum Kpin. Người Êđê ưa dùng những đồ trang sức đẹp bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng lao lý mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày này không cà răng nữa .

Trang phục nam[ sửa | sửa mã nguồn ]

Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu và đeo sbay trong dịp lễ. Y phục truyền thống lịch sử gồm áo và khố .
Tập tin:Bracelets, E De, Dar Lac, 1967, silver – Vietnamese Women’s Museum – Hanoi, Vietnam – DSC04052.JPG Bộ vòng Kông-tuôr bằng bạc của phụ nữ Êđê thế kỷ XVIII, gồm 6 đến 12 chiếc, chia làm 2 bộ : Bộ thứ 1 có 3 chiếc để đeo tay phải và cổ chân phải và bộ thứ 2 để đeo tay trái, cổ chân trái. Đây là một loại trang sức đẹp có nguồn gốc từ văn hóa truyền thống trang sức đẹp Ân-Độ, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng phụ nữ Nước Ta – TP. Hà NộiÁo có hai loại cơ bản :

  • Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Êđê qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe, lực lãm.
  • Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài quá gối, có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài trùm mông nói trên,…

Khố có hai loại cơ bản :

  • Khố (Kpin): chủ yếu đượng dùng cho binh lính và nông dân tầng lớp thấp mặc. Khố này có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố thường.
  • Khố quần (čhum kpin): được dùng cho tướng lĩnh và các nhà quý tộc danh giá. Khố quần gồm có ba màu chủ đạo, màu đen, đỏ và xanh.

– Đen : tượng trưng cho đất – Đỏ : tượng trưng cho những nhà giàu quý tộc làm quan. – Xanh : tượng trưng cho núi và rừng

  • Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn “đại bàng dang cánh”, ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.

Trang phục nữ[ sửa | sửa mã nguồn ]

Phụ nữ Êđê để tóc dài buộc ra sau gáy hoặc trùm khăn lên đầu. Họ mang áo váy trong phục trang thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức đẹp đẹp bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ trọn vẹn hoàn toàn có thể nhận ra người quen, thân .

  • Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áo màu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của trang phục áo nữ Êđê khác Gia rai về phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm).
  • Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Êđê là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là m’iêng đếch, rồi đến m’iêng Drai, m’iêng piơk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.
  • Khăn: Có 2 loại khăn.

1. Khăn trùm đầu : được chọn những loại vải mềm và cuốn lên đầu, tùy theo màu vải sở trường thích nghi của cá thể. 2. Khăn lah ( Sbay ) : được đeo trên những dịp lễ bên vai, được làm băng tâm vải rộng khoảng chừng 20 mm, dài tùy theo sở thích hợp với mình .
Cây thập tự màu huyết hình tượng chính trong đạo Tin Lành truyền thống cuội nguồn của người Ê Đê

Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành được các nhà truyền giáo phương Tây[ai! là ai?] truyền vào những năm đầu của thế kỷ XX.[khi nào?] Dak Lak nơi tập trung đông người Ê Đê nhất cũng là nơi có tín đồ Tin Lành nhiều nhất Việt Nam, đây được coi một trong những trung tâm đạo Tin Lành lớn nhất khu vực Đông Dương. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều. Công giáo Rôma được truyền bá thông qua các nhà truyền giáo sau này là người Pháp. Tỉ lệ người Ê đê theo Công giáo rất thấp, do yếu tố tấm lý và nguyên nhân lịch sử, Sau Hiệp định Genève, Ngô Đình Diệm cho hủy bỏ quy chế Hoàng triều Cương thổ, tức chấm dứt đặc quyền của Quốc trưởng Bảo Đại trên vùng Cao nguyên và gom vùng đất này vào lãnh thổ chung của Quốc gia Việt Nam. Về mặt kinh tế có khoản mở rộng đất đai canh tác và lập các khu dinh điền, định cư hàng trăm nghìn người Công giáo từ miền Bắc di cư vào Nam. Một số được đưa lên vùng Tây Nguyên chiếm một số đất người Thượng làm các khu dinh điến, sự xuất hiện đông đột ngột người Kinh Công giáo, cùng với sự kỳ thị chủng tộc, mất đất đai, văn hóa bị xâm phạm, đã để lại vết đau trong tâm lý của người Êđê, trừ những người Êđê Công giáo thời Pháp thuộc, thì hầu như người Ê đê còn lại đa phần chọn Tin Lành như là một tôn giáo để có thể đối chọi lại từ sự đồng hóa từ phía công giáo mà chính quyền Ngô Đình Diệm ủng hộ lúc đó. Những người Ê đê theo Công giáo thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Một số rất ít theo Phật giáo tại các vùng đô thị. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng cổ truyền, thờ cúng các thần hộ thân cho mình.
Lịch pháp theo tôn giáo truyền thống của người Ê-đê có sự khác biệt so với lịch pháp công lịch,thứ lịch đếm ngày chậm hơn một ngày so với công lịch. Người Eđê sử dụng lịch pháp Moise có nguồn gốc từ Do Thái giáo. Đó là ngày bắt buộc người Eđê phải nghỉ ngơi thờ phượng vào ngày thứ Bảy (Hruê Kjuh) hay còn gọi là Hrue Sabbath (shab-bawth’) tức ngày Chủ Nhật (Sunday) trong Công Lịch Việt Nam.

So sánh Lịch pháp Ê-đê với những lịch pháp Công Lịch
[ sửa | sửa mã nguồn ]

Lịch thứ tiếng Ê-đê Lịch thứ Hebrew (Do Thái giáo) Lịch thứ tiếng Việt Lịch thứ tiếng Anh
Hruê 1 (SA) Yom Rishon (1) – יום ראשו Thứ 2 (HAI) Monday (2-DAY)
Hruê 2(DUA) Yom Sheni (2) – יום שני Thứ 3(BA) Tuesday (3-DAY)
Hruê 3 (T’LÂO) Yom Shlishi (3)– יום שלישי Thứ 4 (TƯ) Wednesday (4-DAY)
Hruê 4 (PĂ) Yom Reviʻi (4) – יום רביעי Thứ 5 (NĂM) Thursday (5-DAY)
Hruê 5 (ÊMA) Yom Chamishi (5) – יום חמישי Thứ 6 (SÁU) Friday (6-DAY)
Hruê 6 (NĂM) Yom Shishi (6) – יום ששי Thứ 7 (BẢY) Saturday (7-DAY)
Hruê 7 (KJUH) (SABAT) Yom Shabbat (7) – יום שבת CHỦ NHẬT Sunday (1-FIRST DAY)

Người Ê Đê coi số 7 là số lượng rất thiêng, và số lượng tận trong hàng đơn vị chức năng công dụng tiếng Ê-Đê cùng sau số lượng 7 đều là những số ghép. Người Ê-đê theo Tin Lành thờ phượng đúng vào ngày Thứ Bảy mà họ gọi là ( Hrue Sabbath ) : Ngày Nghỉ ngơi – Trùng vào ngày Chủ Nhật ( Sunday ) trong Công Lịch. Những ngày này phần lớn Fan Hâm mộ thường kiêng không thao tác nương rẫy hay lao động chân tay khác. Đạo Tin Lành truyền thống cuội nguồn cuội nguồn của người Ê-đê hòa trộn nhiều tín ngưỡng địa phương có trước với nhiều quy tắc kiêng cự khá ngặt khắc nghiệt : Cấm hôn nhân gia đình mái ấm gia đình ngoại giáo, không ăn thịt động vật hoang dã hoang dã chết hay quái vật cắn, không ăn thực phẩm đối sánh tương quan cúng tế ngoại giáo, cấm thờ ảnh tượng, không ăn huyết động vật hoang dã hoang dã và những thức ăn chế biến từ huyết động vật hoang dã hoang dã, cấm dùng đồ uống có men như rượu, bia và thuốc lá, đưa tang ma vào lúc 9 giờ buổi sáng theo ý niệm phải mặt trời ( ánh bình minh ) chiếu xuống huyệt góc 60 độ về hướng Tây ( ? ) …

Tên họ người ÊĐê[ sửa | sửa mã nguồn ]

[ Yehowa]Ký họa tên tuổi Thượng đế Y-HWH ( AÊ-DIÊ ) bằng chữ Do Thái Hebrew. Vào đầu thế kỷ XX, Y-Jut đã triển khai cải cách lối đặt đệm tên họ cho người Ê Đê bằng cách dùng vần âm đầu là chữ ” Y – ” là tên tuổi Thượng đế Y-HWH ( Thiên Chúa Giê-Hô-Va hay Gia-Vê ) để đệm tên lót cho tổng thể người nam thay thế sửa chữa hẳn lối đặt tên chịu tác động ảnh hưởng từ phong kiến Champa và Java ( Indonesia ) mang nhiều sắc tố phân biệt thứ bậc, tuổi tác, vị thế rườm rà phức tạp ( Dam, Hbia, Ama, Aê, Yă, Aduôn, pô … ) hầu hết ngày này người nam Ê Đê đều đệm vần âm ” Y – ” từ chữ ” YHWH ” theo cấu trúc ” ( Y – ) + ( tên gọi ) + ( họ ) như là một điều bắt buộc cho mọi phái mạnh người Đê mang ý nghĩa : những đứa con trai của Yang ( anak Aê-Diê ) .
Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Êđê – Việt bằng mẫu tự Latin gồm Chương đầu sách Phúc âm theo Thánh đồ Y-Mathiơ tóm tắt giả phả của Đấng Christ từ tổ phụ Y-Abraham. Đây là ấn bản tìm hiểu thêm cho cuốn Kinh Thánh tiếng Ê Đê ấn bản 1928 ( thất truyền 1954 ), ấn bản 1968 và ấn bản 1972 của viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ học Mùa hè Mỹ và hiệp hội Thánh Kinh United Bible Societies .Trước khi người Pháp đặt chân lên Tây Nguyên ( Đêga ), người Êđê đã có chữ viết riêng theo lối văn tự Pali – Sancrit của Ấn Độ mà người Êđê gọi là ” Boh hră “, hoàn toàn có thể là một trong những loại dạng kiểu chữ viết cong của người Champa, loại chữ Sancrit này được viết trên giấy da ” mơar klĭt “, hay trên lá cọ khô ” Hla guôl “, loại chữ này trọn vẹn thất truyền sau năm 1954 bởi chủ trương Việt hóa và cấm dậy ngôn từ địa phương dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm của chính phủ nước nhà Nước Ta Cộng Hòa, những văn bản bằng chữ Êđê cổ sau cuối bị chính quyền sở tại Ngô Đình Diêm thiêu huỷ trọn vẹn. Trong thời hạn quản lý của người Pháp, chính quyền sở tại thuộc địa đã cổ vũ sử dụng chữ viết theo mẫu tự Latin do 2 thầy giáo Y-Ut và Y-Jut phát minh sáng tạo ra vào tầm những năm đầu thế kỷ XX. Mục đích hầu hết là nhằm mục đích ship hàng giáo dục. Trong khi người theo Công giáo và Tin Lành dùng nó để ghi chép Kinh Thánh và Gia Phả. So với những dân tộc bản địa ít người khác tại Nước Ta, người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng vần âm La tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với những nhân viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ học Mùa hè đặt chữ viết cho người ÊĐê để dịch Kinh Thánh cho dân tộc bản địa này [ 8 ]. Năm 1971, những nhân viên này phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo Nước Ta Cộng Hòa phát hành sách dạy tiếng Ê Đê [ 9 ]. Năm 1979, sách dạy ngữ vựng ÊĐê được xuất bản tại Hoa Kỳ [ 10 ]. Kinh Thánh Tân Ước song ngữ ÊĐê-Việt phát hành năm 2001 [ 11 ]. Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn giáo của chính phủ nước nhà Nước Ta, với sự tương hỗ của United Bible Societies, đã phát hành 20 ngàn cuốn Kinh Thánh Tân Ước song ngữ ÊĐê-Việt tại Nước Ta [ 12 ]. Đây là cuốn sách có số lượng phát hành nhiều nhất trong tiếng ÊĐê từ trước đến nay .

Ẩm thực người Ê Đê[ sửa | sửa mã nguồn ]

Các tiểu quốc Người Êđê ( Orang Đê ) trong lịch sử dân tộc[ sửa | sửa mã nguồn ]

Người Êđê và người Ja Rai vốn cùng nguồn gốc từ một tộc người Orang Đê cổ được ghi chép khá nhiều trong những bia ký Champa, Khmer, … Orang Đê trọn vẹn hoàn toàn có thể là nhóm mà người Ê đê và Gia Rai gọi là Mdhur, trong văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn Mdhur có tiềm ẩn nhiều yếu tố văn hoá trung gian giữa người Êđê và Ja Rai. Trong văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn Mdhur trước kia còn sống sót tục hỏa táng người chết và bỏ tro trong chum, ché sau đó mới mang chôn cất trong nhà mồ, đây trọn vẹn hoàn toàn có thể là tác động ảnh hưởng tác động ảnh hưởng của đạo Hin-đu từ người Chăm. Xét về phương diện người Mdhur là cội nguồn xuất phát của người Ê đê và Gia Rai tân tiến. Trong lịch sử dân tộc dân tộc bản địa Orang Đê đã từng sống sót những tiểu quốc sơ khai, với sự quản trị của những Mtao, Pơ Tao có thế lực trên một khu vực to lớn ở vùng người Gia Rai và Ê đê. Sự hình thành những tiểu quốc nhỏ là đặc trưng thường thấy ở những tộc người Đông Nam á :

  • Mtao Pui- Mtao Êa (Thủy Vương – Hỏa Vương, tiếng Khmer là Sadet Tok – Sadet Phlong, là tên gọi của hai vị tiểu vương cai trị tiểu quốc Orang Đê của bộ tộc người Jarai Chor, Jarai Hdrung, Êđê Krung, Mdhur và một bộ phận Êđê Adham trên cao nguyên Pleiku, thung lũng Cheoreo, Buôn Hồ, Êa Sŭp, Krông Pa, M’Drak, Krông Hing từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX. Sang cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, nhóm Êđê Adham vùng Krông Bŭk, Buôn Hồ, Čư̆ Mgar lớn mạnh nhờ giao lưu buôn bán được với người Lào, Khmer, Xiêm thông qua vùng Bản Đon ngày nay, Yă Wam là một nữ tù trưởng đã từng dựa vào người Xiêm và Lào để đưa người Adham thoát khỏi ảnh hưởng của các Mtao-Ptao vùng Jarai.

Mộ tháp Khun-Ju Nốp tại Buôn Trí, là khu vực được Mtao ( thủ lĩnh ) Yă-Wam vua tiểu quốc Adham cắt Tặng Kèm đất cho người tình mình là Y-Thu Knul, nhằm mục đích chấm hết những cuộc Nam tiến, Đông tiến của người Lào – Thái

  • Tiểu quốc Adham (TK 18 -TK 19)

Adham hay Dham, hoặc Atham, là một nhóm địa phương của người Ê đê. Người Adham cư trú ở phía tây-bắc Dak Lak, hầu hết ở vùng Buôn Hồ, Čư ̆ Mgar, Krông Bŭk và Êa Hleo. Đây là nhóm địa phương đông dân số nhất của người ÊĐê. Khoảng giữa thế kỷ XVIII vào đầu thế kỷ XIX, người Êđê Adham đã từng di cư ồ ạt xuống phía tây nam của Đăk Lăk và dừng lại cộng cư với người Êđê Kpă vùng Buôn Ama Thuột ngày này để tránh những cuộc tiến công từ những Mtao Êa – Mtao Pui của tiểu quốc Jarai. Nhờ con đường kinh doanh thương mại với người Lào, Xiêm, Khmer tại những cửa sông Bản Đon ngày này, thế kỷ XVIII – XIX được coi thời kỳ tăng trưởng mạnh của Êđê Adham với sự quản trị của nữ thủ lĩnh Yă Wăm được người Êđê gọi Mtao Mniê ( Vua Bà ), Yă Wăm quản trị một khu vực to lớn từ Krông H-Nang, Buôn Hồ, Êa Sŭp, Čư ̆ Mgar, Buôn Đôn. Do vậy, bà được người Lào, người Xiêm kính nể và so sánh ngang với thế lực Mtao Pui, Mtao Êa. Cho đến đầu thế kỷ XX, người Adham là nhóm hùng mạnh và thịnh vượng nhất so với những nhóm Êđê khác như người Kpă. Địa bàn của người Adham gồm ‘ ” … Nam phần Dak lak cho tới lưu vực sông Ya Liau, phía Đông Bắc, họ vượt qua sông Krông Bŭk và lan tới tận thượng nguồn sông H Nang “. Việc bà Yă Wăm cắt đất Buôn Đôn cho Y-Thu Knul để định cư cho 1 số ít dân người gốc Lào, Thailand lập ra Buôn Đôn, chấm hết cuộc nam tiến của người Lào theo dọc những nhánh sống Mekong, cùng với câu truyện tình ái giữa Nữ thủ lĩnh nổi tiếng và thủ lĩnh săn voi kĩ năng này, là nguyên do để tiểu vương quốc Êđê Adham suy tàn sau khi người Pháp đặt chân đến Buôn Đon. Lúc này thế lực Êđê Kpă vùng Buôn Ama Thuôt mở màn vững mạnh nhờ dựa vào thế lực người Pháp thay thế sửa chữa thay thế sửa chữa hẳn vai trò của người Êđê Adham .

Câu nói của nhân vật nổi tiếng[ sửa | sửa mã nguồn ]

Chúng ta phải có chữ của người ÊĐê, chúng ta cũng cần học tiếng Pháp thật giỏi để người Pháp không dám coi thường chúng ta“.- Thầy giáo Y Jut Hwing (1885-1934), người đã sáng tạo ra chữ ÊĐê.

Đất là lưng ông bà ta, rừng cây, khe suối là của ông bà ta, sao ta lại chịu bỏ nhà, bỏ buôn làng mà đi để bọn giặc chúng giẫm lên lưng ông bà ta, phá phách rừng núi của ông bà ta“. – Tù trưởng Ama Jhao (1840-1905)

Cuộc đời tôi vừa được ca hát, vừa trồng cà phê, vừa được sống giữa núi rừng, sống với thiên nhiên. Người ta vẫn hỏi tôi, tại sao không dời nhà về thành phố, tại sao không đi diễn nhiều, tại sao không làm kinh tế, câu trả lời của tôi rất giản dị, tôi yêu cuộc sống ở cao nguyên, tôi yêu thiên nhiên quê mình, tôi thích cách sống như vậy, và dù không biết đó có phải là lựa chọn đúng hay không, nhưng tôi không bao giờ hối hận về sự lựa chọn của mình. “— Y Moan Ênuôl

Ta không sợ nghèo vì ta quen nghèo rồi, ta cũng không sợ chết, nhưng sau ta, ai xứng đáng là sứ giả văn hóa…“- Y Moan Ênuôl

Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử dân tộc[ sửa | sửa mã nguồn ]

Một phụ nữ quyền quý thuộc dòng dõi Rhade đã hạ sinh một cô con gái trong đêm tháng ba (âm lịch) lúc trời đất vào khoảng khắc chuyển mùa từ mùa khô sang mùa mưa đúng lúc năm mới ở các xứ Lào, Khmer, Xiêm La (Thái Lan), cũng là năm mới trong tháng lịch nông nghiệp của người E đê, Drah jan sinh ra khi trời đất nổi những cơn sấm ầm ầm trong đêm và giọt mưa đầu mùa tí tách trút xuống như hạt máu vì sau tháng mùa khô ầy bụi đất, vì thế mưa đầu mùa người Êđê gọi là ” Drah Hjan ” nghĩa là ” mưa máu ” là giọt mưa nước mắt bằng máu của tổ tiên (atau) khóc cho con cháu dưới trần gian. Mẹ của Drah Hjan qua đời sau khi bà hạ sinh Drah Hjan trong đêm lạ lùng đó. Cho nên tới bây giờ người Eđê vẫn còn phong tục ” Kăm Mah” khi có giọt mưa đầu mùa kèm theo những tiếng sấm thất kinh đất trời Tây Nguyên, Kăm mah nghĩa là ” kiêng cữ đeo trang sức vàng bạc ” tức là phụ nữ Êđê không được ra ngoài trong mưa, không đeo vàng bạc trang sức vì đó là ngày một phụ nữ Êđê quyền quý qua đời cũng là ngày hạ sinh một cô công chúa Drah Hjan huyền bí sau này sẽ là bà hoàng của một Vương Quốc (Hơ Bia). Riêng người Chăm thì cho rằng theo các nhà chiêm tinh Bà La Môn của Vua Po rê mê thì hạt mầm nảy lộc làm vực dậy vương quốc Chăm pa lại chính là từ người Rhade, các nhà thuật chiêm tinh của Poerme tin rằng Drah jan chính là vị thần có thể hồi sinh nòi giống Chiêm Thành. Từ đó đích thân Pô Rê mê sang vùng đất Rhade để rước Drah jan về, Pô rê mê vốn là người tin vàu thuật bói khóa, chiêm tinh, Dù ông nhiều bà vợ nhưng duy nhất Drah Hjan là người hạ sinh nhiều con cái cho hoàng triều nhất. Chúa nhà Nguyễn, Nguyễn Phúc Tần sai cai cơ Hùng Lộc mang 3000 quân đánh chiếm vùng đất còn lại của Champa từ Nha Trang đến Sông Phan Rang. Po Romê bị bắt trong trận chiến này, ngài bị nhốt vào Rọ, bỏ đói bỏ khát trên đường đưa về Huế, có lẽ trên đường đi ngài đã tự tử (Lược sử Dân tộc Chàm Dohamide gọi là Ba Bì đã tự tử). Theo tục lệ đạo Bà La Môn, người ta hỏa thiêu xác vua, khi đó chỉ có bà hoàng hậu Ê Đê là H’Bia Drah Hjan đã lặng lẽ âm thầm tiến đến gần nhảy vào lửa chết theo chồng,vì hoàng hậu cả là bà Drah Jih theo đạo Hồi (Chăm BàNi) theo giáo luật Hồi giáo không giám tuẫn tiết theo vua. Để tưởng nhớ đến một vị hoàng hậu cuối cùng của Vương triều Champa này nên được nhân dân thờ Bà trong một ngôi tháp phụ, rồi khi ngôi tháp sụp đổ, tượng của bà được đưa vào tháp chính phía bên phải tượng Vua là người chồng của mình. Sự hi sinh chung thủy của Drah Hjan đến nỗi người Chăm coi bà như Nữ Thần và gọi là Pô Bia Drah Hjan. Đây có thể là mối liên hệ cuối cùng về hôn nhân giữa các triều đại Champa với người Rangđêy. Người Chiêm Thành đã có những câu ca rằng:
Ba hoàng hậu Drah Hjan, Drah Jih, Drah Yang,Làm náo động sân đình chỉ vì thần Po Rame đẹp trai.Ba hoàng hậu Drah Hjan, Drah Jih, drah Yang, Sắc đẹp toả sáng như thần mặt trời mọc lên.(Drah Jan: hoàng hậu người Êđê, Drah Jih: hoàng hậu cả người Chăm Hồi giáo Bàni, Drah Yang: có ý kiến cho rằng những người vợ Pô Reme theo Hồi giáo gốc Kelantan (Bắc Malaysia)”

Như vậy vua Pô Reme 4 bà vợ : Một người Cham Bà-ni là công chúa nhà vua Pô Muh Taha ; Một người Malaysia, để bang giao với quốc tế Mã Lai. Một người Ê đê, Vua Pô rê mê và những thuật sĩ chiêm tinh Bà La Môn khi đó tin rằng để hồi sinh sức mạnh Champa xưa cũ nhằm mục đích mục tiêu phong cách thiết kế kiến thiết xây dựng lại cơ đồ vực dậy hồi sinh giống dân Chiêm Thành về sau ; Và bà vợ Việt là Công nữ Ngọc Khoa Bia Ut, như là kế hoãn binh với người Việt để tái thiết vương quốc .

Thông tin khác: Tương truyền vào năm 1471, khi thân chinh cầm quân tấn công tiêu diệt Champa,vua Lê Thánh Tông dừng tại chân núi, cho quân lính trèo lên khắc tên, ghi rõ cương vực Đại Việt (Việt Nam ngày nay) tại nơi này. Vì thế, núi được gọi là núi Đá Bia.Trên núi có 1 tảng đá cao 76m, tương truyền năm 1471, vua Lê Thánh Tông đã đến đây và cho khắc lên mặt khối đá bài văn (nên sau gọi là hòn Đá Bia) dòng chữ khẳng định chủ quyền Đại Việt.Về nội dung văn bia, các tài liệu có sự giải chép khác nhau, tựu trung có ba nội dung như sau: “Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong, An Nam quá thử, tướng tru binh chiết” nghĩa là “Chiêm Thành vượt qua nơi này, binh thua nước mất, An Nam vượt qua nơi này, tướng chết quân tan”; hoặc “Dĩ Nam Chiêm Thành, dĩ Bắc dân triều mệnh Việt Nam” nghĩa là “Từ đây về Nam là Chiêm Thành, từ đây về Bắc dân chịu mệnh Việt Nam”; cũng có tài liệu nói rằng văn bia chỉ là hai chữ “Hồng Đức”, là niên hiệu của vua Lê Thánh Tông. Theo tryền thuyết người Êđê Phú Yên truyền thuyết của người Êđê, núi Đá Bia là Kut Hbia Bhi (mộ của bà HơBhí). Hbia Bhí là tên gọi khác của Hơbia Drah Hjan là người dân tộc Êđê, vợ của vua Pôrômê là vị vua tài giỏi của người Champa xưa kia,sau khi HơBia Bhí (một trong 3 người vợ của vua Pôrômê) mất, người ta đã đắp cho bà ngôi mộ thật to lớn, đó chính là núi Đá Bia ngày nay.

Núi Đá Bia, phía nam Phú Yên – Theo Truyền thuyết nói rằng sau khi HơBia Bhí ( tên gọi khác của hoàng hậu Drah Jan ) mất, người ta đã đắp cho bà ngôi mộ thật to lớn, đó chính là núi Đá Bia ngày này . Tháp Pô Reme tại Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận thờ Vua Pô Remê và hoàng Hậu Drah Hjan người Êđê

  • Y Jut Hwing (1888-1934) sinh ra tại Buôn Kram, xã Êa Tiêu trước đây thuộc huyện Krông Ana, nay thuộc huyện Čư̆ Kuiñ, tỉnh Dak Lak. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, Y-Jut cùng các trẻ em nam khác bị thực dân Pháp bắt cóc và giao nộp cho Trường Prancios-Rhade để đào tạo trí thức tay sai cho thực dân Pháp. lợi dụng cơ hội này Y Jut quyết tâm học hành, đem ánh sáng văn hóa trở lại phục vụ quê hương, buôn làng và đó cũng là cơ hội tốt nhất để giải phóng đồng bào ra khỏi ách áp bức bóc lột. Y Jút tốt nghiệp sơ học tại Trường Franco – Rhade Buôn Ama Thuôt, tốt nghiệp tiểu học ở Huế và năm 1912 học trung học tại Trường Lycee Khải Định Huế. Năm 1916 Y Jut tốt nghiệp trung học, được bổ nhiệm làm giáo viên tại Trường Franco – Rhade Buôn Ma Thuột. Trước cảnh sống tối tăm và khổ nhục của đồng bào do chính sách ngu dân của thực dân Pháp, ngay từ những năm đầu bước vào nghề dạy học, Y Jút đã nuôi hoài bão giải thoát người ÊĐê ra khỏi nạn mù chữ. Kết hợp với bạn bè như Y Ut Niê, Y Blŭl Êban tìm hiểu mẫu tự La tinh và vần Êđê đặt ra bộ chữ viết Êđê ngày nay. Sau đó bộ chữ này được đốc học Angtoamaki và Sabatier tu chỉnh lại vào năm 1920. Latinh hóa tiếng Êđê và thầy đã thành công. Ngoài ra, Y Jút còn là người phụ trách biên soạn bộ giáo trình Rhade – Pháp(Rhade-Francios) loại bỏ giáo trình Pháp-Rhade (Francios-Rhade) dùng để giảng dạy trong nhà trường nghĩa là học sinh bản địa Êđê học chữ Êđê trước sau đó mới học chức Pháp. Chữ Êđê là một trong những bộ chữ của các tộc người bản địa Tây Nguyên được xây dựng sớm nhất ở khu vực từ cơ sở chữ Latinh nhằm mục đích phục vụ giáo dục, với ý thức tự tôn dân tộc, nhằm giúp cho người Êđê có chữ viết. Sau này mới được các linh mục người Pháp, các mục sư Tin lành người Mỹ góp ý sửa chữa để chép kinh thánh bằng tiếng Êđê. Điều này không giống với quá trình xây dựng và hình thành bộ chữ của một số tộc người Tây Nguyên khác như: Jarai, Bana, Ka Ho… đều do các đức cha giáo phận mời trí thức các dân tộc cùng tham gia biên soạn, hướng chính vào mục đích phổ biến kinh thánh Cơ đốc và Tin lành. Trải qua nhiều năm tháng, bộ chữ Êđê ban đầu do hai thầy Y Jut và Y Ut biên soạn vẫn được coi là khoa học nhất và rất ít bị thay đổi. Ngày nay hầu hết người Êđê sử dụng thành thạo chữ viết này. Y-Jut bị đầu độc và qua đời năm 1934 tại Buôn Ama Thuôt còn Y-Ut Niê BuônRit (Ama Puk) bị kẻ xấu ám sát bằng súng năm 1962 tại Buôn Trăp Krông Ana trong khi trên đường về dạy học cho các trẻ em Êđê. Ông Y Ut cũng là một dân biểu quốc hội trong chế độ cũ Việt Nam Cộng Hòa.

Những người Ê Đê có khét tiếng[ sửa | sửa mã nguồn ]

  • Anne de Hautecloque – Howe, Nguyên Ngọc và Phùng Ngọc Cửu (dịch) (2004). Người Ê Đê – một xã hội mẫu quyền (bằng tiếng Việt). Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.
    Xem thêm : AHA là gì ? Công dụng và cách dùng AHA làm đẹp da hiệu suất cao
  • Henri Maître, Lưu Đình Tuân, Nguyên Ngọc (dịch) (2008). Rừng người Thượng (bằng tiếng Việt). Hà Nội: Nhà xuất bản Tri Thức.
  • Nguyễn Hữu Thấu – Khan Đăm san và Khan Đam kteh Mlan
  • Luật tục Ê đê

Liên kết ngoài[ sửa | sửa mã nguồn ]

Source: https://dvn.com.vn
Category : Chigo

Alternate Text Gọi ngay