Đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc – Wikipedia tiếng Việt
Đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc (tiếng Trung: 中国国家足球队; Hán-Việt: Trung Quốc quốc gia túc cầu đội; bính âm: Zhōngguó guójiā zúqiú duì) là đội tuyển bóng đá nam đại diện cho Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, được điều hành bởi Hiệp hội bóng đá Trung Quốc (CFA).
Trung Quốc từng dự World Cup 2002. Tại những kỳ Cúp bóng đá châu Á, đội đã 12 lần liên tục dự vòng chung kết từ năm 1976 trong đó có 2 lần lọt vào trận chung kết vào những năm 1984 và 2004 và đều giành ngôi Á quân .
Tuyển bóng đá Trung Quốc tiên phong hậu phong kiến sinh ra vào năm 1913 để đi tham gia Đại hội Thể thao Cực Đông năm đó diễn ra tại Philippines. Đến năm 1924, Thương Hội bóng đá Trung Quốc xây dựng dưới thời Trung Hoa Dân Quốc và gia nhập FIFA vào năm 1931. [ 3 ]
Sau Nội chiến Trung Quốc, 1 tổ chức khác cũng tên là Hiệp hội bóng đá Trung Quốc mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho thành lập là thành viên của FIFA cho đến năm 1958. Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa có trận quốc tế đầu tiên với Phần Lan vào ngày 4 tháng 8 năm 1952.
Đội dự vòng loại World Cup 1958 trước khi rút lui khỏi đấu trường quốc tế và chỉ gia nhập lại vào năm 1979. Trong vòng 30 năm, Trung Quốc đa số chỉ đấu giao hữu với những đội như Albania, Miến Điện, Campuchia, Guinée, Hungary, Mông Cổ, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pakistan, Sudan, Liên Xô và Cộng hòa Ả Rập Thống nhất. Đội dự Vòng loại giải vô địch bóng đá quốc tế năm 1958 và thua Indonesia ở hiệu số bàn thắng .Trung Quốc dự vòng loại World Cup năm 1980 và thua New Zealand trong trận play-off. Ở vòng loại World Cup năm 1986, Trung Quốc gặp Hồng Kông ở sân nhà trong trận đấu ở đầu cuối của vòng sơ loại tiên phong ngày 19 tháng 8 năm 1985, trận mà Trung Quốc cần phải hòa nếu muốn đi tiếp. Hồng Kông đã thắng 2-1 và dẫn đến 1 cuộc ẩu đả giữa cổ động viên 2 bên. Ở vòng loại năm 1990, Trung Quốc lần nữa lọt vào vòng đấu ở đầu cuối của vòng loại và thua Qatar trong trận sau cuối của vòng bảng. Ở vòng loại năm 1994, đội lại mất thời cơ lọt vào vòng đấu ở đầu cuối của vòng loại khi xếp thứ 2 sau Iraq. Trung Quốc đứng trước thời cơ tham gia vòng loại năm 1998 và thua những trận đấu trên sân nhà trước Qatar và Iran .Ngày 26 tháng 1 năm 2000, Trung Quốc thắng Guam 19-0 trong khuôn khổ vòng loại Cúp bóng đá châu Á và đây trở thành trận thắng kỷ lục tính theo trận đấu quốc tế chính thức ( đã bị Kuwait phá vỡ 19 ngày sau đó ) .Đội dự World Cup 2002 dưới sự dẫn dắt của Bora Milutinović, tập hợp 1 đội hình trong đó có những thành viên tranh tài tại châu Âu ( Phạm Chí Nghị và Tôn Kế Hải tại Crystal Palace, Thiệu Giai Nhất tại 1860 München, Lý Thiết tại Everton, Mã Minh Vũ tại Perugia … ), [ 4 ] thua cả 3 trận trước Brasil, Thổ Nhĩ Kỳ, Costa Rica và không ghi được bàn thắng nào .Từ năm 2004, CFA mở màn số lượng giới hạn tên thương hiệu giày bóng đá trong đội tuyển, lao lý tổng thể những cầu thủ phải sử dụng giày của Adidas .Trong trận chung kết Asian Cup 2004 trên sân nhà gặp Nhật Bản, đội thua 1 – 3 trong đó có 1 bàn thắng ghi bằng tay của Nakata Koji, điều này khiến 1 số cổ động viên Trung Quốc tức giận và có hành vi bài Nhật sau trận đấu. [ 5 ]Đã có hơn 300 triệu dân Trung Quốc theo dõi hành trình dài của đội tại World Cup 2002. Cũng như có 250 triệu người xem truyền hình đã theo dõi vòng chung kết Asian Cup 2004, kỷ lục cho 1 sự kiện thể thao trong ngành truyền hình Trung Quốc. [ 6 ]Tháng 11 năm 2004, Trung Quốc không hề tham gia vòng đấu sơ bộ của Giải bóng đá vô địch quốc tế 2006 khi thua Kuwait về hiệu số bàn thắng bại dù trước đó đã xuyên thủng mảnh lưới của Hồng Kông đến 7 lần trong trận đấu ở đầu cuối. Sau đó, huấn luyện viên Arie Haan bị sửa chữa thay thế bởi Chu Quảng Hỗ sau quy trình tuyển dụng .Tháng 8 năm 2005, Trung Quốc thắng giải Cúp bóng đá Đông Á 2005, đây là thương hiệu quốc tế tiên phong của đội khi hòa 1 – 1 Nước Hàn, 2 – 2 Nhật Bản và thắng 2 – 0 Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên .Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2007 năm 2006, đội ghi 1 bàn thắng duy nhất từ chấm phạt đền bởi Thiệu Giai Nhất trong trận đấu với Nước Singapore tại sân nhà và sau đó hòa đối thủ cạnh tranh trên sân khách .
Tại vòng loại World Cup 2022 khu vực châu Á, Trung Quốc thi đấu rất tệ hại. Đặc biệt là ngày mùng 1 tết Nguyên Đán năm 2022, Trung Quốc nhận trận thua bẽ mặt nhục nhã với tỉ số 3-1 trước Việt Nam và bắt đầu cho 1 chuỗi thời kì suy thoái và thất bại của Trung Quốc sau này.
Đội tuyển Trung Quốc có biệt danh được gọi là “Long chi đội” (tiếng Trung: 龙之队; bính âm: Lóng zhī duì), nghĩa là “Đội tuyển Rồng”.[7][8]
Áo sân nhà của Trung Quốc theo truyền thống lịch sử là màu đỏ với viền trắng trong khi áo sân khách của họ theo truyền thống cuội nguồn là một phiên bản đảo ngược của áo sân nhà, trọn vẹn màu trắng với viền màu đỏ. Trong Giải vô địch bóng đá châu Á 1996, Trung Quốc đã sử dụng một áo thứ ba có màu xanh với viền trắng và được sử dụng trong trận đấu với Ả Rập Xê Út trong giải đấu. [ 9 ]
Tài Trợ | Năm | Bắt Đầu | Thời hạn hợp đồng | Giá Trị | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
Adidas | 1991–2014 | ||||
Nike | 2015–nay | 2015-01-03 | 2015–2026 (11 năm) | $16 tỷ mỗi năm | [10][11] |
Mục Lục
Đội hình hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]
Giải đấu: EAFF Cup 2022
Đối thủ: Hàn Quốc,
Số liệu thống kê tính đến ngày 27 tháng 7 năm 2022 sau trận gặp Hồng Kông.
Triệu tập gần đây[sửa|sửa mã nguồn]
Huấn luyện viên[sửa|sửa mã nguồn]
- 1 : Non FIFA ‘A’ international match
Cấp quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Thế vận hội | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Vị trí | St | T | H | B | Bt | Bb |
1900 đến 1928 | Không tham dự | ||||||
|
Vòng 1 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 2 |
1948 | Vòng 1 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 4 |
1952 đến 1956 | Bỏ cuộc sau vòng loại | ||||||
1960 đến 1976 | Chưa phải là thành viên của IOC | ||||||
1980 đến 1984 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
1988 | Vòng 1 | 3 | 0 | 1 | 2 | 0 | 5 |
Tổng | Vòng bảng | 5 | 0 | 1 | 4 | 0 | 11 |
Cấp lục địa[sửa|sửa mã nguồn]
Á vận hội | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Vị trí | St | T | H | B | Bt | Bb |
1951 | Không tham dự | – | – | – | – | – | – |
1954 | – | – | – | – | – | – | |
1958 | – | – | – | – | – | – | |
1962 | – | – | – | – | – | – | |
1966 | – | – | – | – | – | – | |
1970 | – | – | – | – | – | – | |
1974 | Vòng 1 | 3 | 1 | 0 | 2 | 7 | 4 |
1978 | Hạng ba | 7 | 5 | 0 | 2 | 16 | 5 |
1982 | Tứ kết | 4 | 2 | 1 | 1 | 4 | 3 |
1986 | Tứ kết | 4 | 2 | 1 | 1 | 10 | 6 |
1990 | Tứ kết | 4 | 2 | 1 | 1 | 8 | 4 |
1994 | Á quân | 7 | 5 | 1 | 1 | 18 | 8 |
1998 | Hạng ba | 8 | 6 | 0 | 2 | 24 | 7 |
Tổng | Á quân | – | – | – | – | – | – |
Cấp khu vực[sửa|sửa mã nguồn]
- FIFA World Cup
- Vòng bảng (1): 2002
- AFC Asian Cup
- Á quân (2): 1984, 2004
- Hạng ba (2): 1976, 1992
- Asian Games
- Huy chương bạc (1): 1994
- Huy chương đồng (2): 1978, 1998
- EAFF E-1 cúp bóng đá Đông Á
- Vô địch (2): 2005, 2010
- Á quân (2): 2013, 2015
- Hạng ba (5): 2003, 2008, 2017, 2019, 2022
- Dynasty Cup
- Á quân (2): 1990, 1998
- China Cup
- Hạng ba (1): 2017
- Dunhill Cup
- Vô địch (1): 1997
- Á quân (1): 1999
- Four Nations Tournament
- Vô địch (2): Jan. 2000, Sept. 2000
- Hạng ba (1): 2001
- King’s Cup
- Vô địch (2): 1991, 1993
- Á quân (1): 2001
- Hạng ba (1): 1980 (shared)
- Kirin Cup
- Hạng ba (1): 1984 (shared)
- Lunar New Year Cup
- Vô địch (1): 1978
- Á quân (2): 1989, 1990
- Merlion Cup
- Vô địch (1): 1986
- Hạng ba (1): 1983
- Nehru Cup
- Á quân (4): 1982, 1983, 1984, 1986
- Hạng ba (1): 1997
Thi đấu nhiều trận nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Vẫn thi đấu cho đội tuyển quốc gia
Bị xóa tên khỏi lịch sử thể thao
- Tính đến 29 tháng 3 năm 2022:
Ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Hác Hải Đông bị xóa tên khỏi lịch sử vẻ vang thể thao Trung Quốc vì có hành vi bị nhà nước cho là chống chính sách. [ 12 ]
Huấn luyện viên trưởng[sửa|sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://dvn.com.vn/
Category : National