Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.08 KB, 20 trang )

Phần I TỔNG QUAN QUY LUẬT GIÁ TRỊ VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I. Khái niệm về quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng
của quy luật giá trị.

II. Vai trò của quy luật giá trị

Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào khi tồn tại trong tự nhiên đều tuân theo những quy định nhất định. Những quy luật này chi phối tới cả quá trình hình
thành và phát triển của mỗi sự vật hiện tượng. Và tất nhiên, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói
riêng cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Theo thời gian, nền kinh tế khơng ngừng biến đổi. Nó liên tục phân chia và hình thành thêm nhiều thành phần kinh
tế mới có những định hướng khác, có những đặc điểm và quy định riêng biệt đối với các thành viên tham gia trong nền kinh tế đó. Chúng giống nhau là nhìn bề
ngồi tưởng như sản xuất và trao đổi hàng hóa là việc riêng của mỗi thành viên họ độc lập và hình như khơng chịu sự chi phối nào. Trên thực tế, mọi người sản
xuất và trao đổi hàng hóa đều chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Vì vậy, quy luật giá trị có các tác dụng chủ yếu sau:

1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

Điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh, phân bổ các yếu tố như: tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từ
nơi này sang nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này được phát triển mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biến
động giá cả thị trường. Từ đó, tạo ra những tỉ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một nền kinh tế hàng hóa nhất định.
Quy luật thể hiện ở chỗ: cung và cầu thường xuyên muốn khớp với nhau với nhau mà thường xuyên tách, nhưng từ trước đến nay có chưa hề ăn khớp
3
nhau mà đối lập với nhau, cung ln bám sát cầu. Chính vì thế thị trường xảy ra các trường hợp sau đây:
– Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa, trường hợp này xảy ra một cách ngẫu nhiên và rất hiếm.
– Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao. Những người đang sản xuất những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy mô
sản xuất, những người đang sản xuất hàng hóa khác thu hẹp quy mơ sản xuất của mình để chuyển sang loại hàng hóa bán chạy này. Như vậy, tư liệu sản xuất,
sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành tăng lên, cung về loại hàng hóa này trên thị trường tăng lên.
– Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa ế thừa, khơng tiêu thụ được, có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuất
loại hàng này phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất mặt hàng khác có giá trị trên thị trường.
Thực chất của điều tiết lưu thông trong quy luật giá trị là điều chỉnh một cách tự phát khối lượng hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ra
mặt bằng giá cả xã hội. Giá trị của hàng hóa thay đổi, thì những điều kiện làm cho tổng khối lượng hàng hóa có thể tiêu thụ được cũng sẽ thay đổi.
“… Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa trong xã hội gồm những người sản xuất trao đổi hàng hóa cho nhau, sự cạnh tranh lập ra bằng
cách đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và một tổ chức duy nhất có thể có của nền sản xuất xã hội. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng hóa mà
những người sản xuất hàng hóa riêng lẻ
1
biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm vào và với số lượng bao nhiêu”.
2. Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
1
Trích dẫn Tư bản, quyển III, NXB Chính trị quốc gia, 1978, tr.309
4
Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động
xã hội của hàng hóa ở thế có lợi, thu được lãi cao. Còn ngược lại, người sản xuất có hao phí lao động các biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa
thì người sản xuất đó ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành được ưu thế trong cạnh tranh và thu được lợi nhuận cao, tránh được nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ
thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải ln tìm cách cải tiến kĩ thuật, cải tiến tổ chức
quản lí, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt ngày càng thúc đẩy q trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã
hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn.

3. Phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu, người nghèo

Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụngcủa quy luật giá trị.Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào khi tồn tại trong tự nhiên đều tuân theo những quy định nhất định. Những quy luật này chi phối tới cả quá trình hìnhthành và phát triển của mỗi sự vật hiện tượng. Và tất nhiên, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nóiriêng cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Theo thời gian, nền kinh tế khơng ngừng biến đổi. Nó liên tục phân chia và hình thành thêm nhiều thành phần kinhtế mới có những định hướng khác, có những đặc điểm và quy định riêng biệt đối với các thành viên tham gia trong nền kinh tế đó. Chúng giống nhau là nhìn bềngồi tưởng như sản xuất và trao đổi hàng hóa là việc riêng của mỗi thành viên họ độc lập và hình như khơng chịu sự chi phối nào. Trên thực tế, mọi người sảnxuất và trao đổi hàng hóa đều chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Vì vậy, quy luật giá trị có các tác dụng chủ yếu sau:Điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh, phân bổ các yếu tố như: tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từnơi này sang nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này được phát triển mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biếnđộng giá cả thị trường. Từ đó, tạo ra những tỉ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một nền kinh tế hàng hóa nhất định.Quy luật thể hiện ở chỗ: cung và cầu thường xuyên muốn khớp với nhau với nhau mà thường xuyên tách, nhưng từ trước đến nay có chưa hề ăn khớpnhau mà đối lập với nhau, cung ln bám sát cầu. Chính vì thế thị trường xảy ra các trường hợp sau đây:- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa, trường hợp này xảy ra một cách ngẫu nhiên và rất hiếm.- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao. Những người đang sản xuất những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy môsản xuất, những người đang sản xuất hàng hóa khác thu hẹp quy mơ sản xuất của mình để chuyển sang loại hàng hóa bán chạy này. Như vậy, tư liệu sản xuất,sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành tăng lên, cung về loại hàng hóa này trên thị trường tăng lên.- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa ế thừa, khơng tiêu thụ được, có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuấtloại hàng này phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất mặt hàng khác có giá trị trên thị trường.Thực chất của điều tiết lưu thông trong quy luật giá trị là điều chỉnh một cách tự phát khối lượng hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ramặt bằng giá cả xã hội. Giá trị của hàng hóa thay đổi, thì những điều kiện làm cho tổng khối lượng hàng hóa có thể tiêu thụ được cũng sẽ thay đổi.“… Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa trong xã hội gồm những người sản xuất trao đổi hàng hóa cho nhau, sự cạnh tranh lập ra bằngcách đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và một tổ chức duy nhất có thể có của nền sản xuất xã hội. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng hóa mànhững người sản xuất hàng hóa riêng lẻbiết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm vào và với số lượng bao nhiêu”.2. Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn.Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.Trích dẫn Tư bản, quyển III, NXB Chính trị quốc gia, 1978, tr.309Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao độngxã hội của hàng hóa ở thế có lợi, thu được lãi cao. Còn ngược lại, người sản xuất có hao phí lao động các biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóathì người sản xuất đó ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành được ưu thế trong cạnh tranh và thu được lợi nhuận cao, tránh được nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạthấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải ln tìm cách cải tiến kĩ thuật, cải tiến tổ chứcquản lí, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt ngày càng thúc đẩy q trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xãhội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn.

Source: https://dvn.com.vn
Category: Sản Xuất

Alternate Text Gọi ngay