Thú có túi – Wikipedia tiếng Việt

Thú có túi là bất kỳ thành viên nào của phân thứ lớp thú Marsupialia. Tất cả các loài thú có túi còn tồn tại đều là loài đặc hữu của Australasia và châu Mỹ. Một đặc điểm chung của hầu hết các loài này là con non được đựng trong một cái túi. Các loài thú có túi nổi tiếng bao gồm kangaroo, chuột túi wallaby, koala, opossum, gấu túi mũi trần, quỷ Tasmania và chó sói Tasmania đã tuyệt chủng. Một số loài thú có túi ít được biết đến là dunnart, potoroo và cuscus.

Thú có túi đại diện thay mặt cho nhánh có nguồn gốc từ tổ tiên chung gần nhất của những loài phân lớp Metatheria còn sống sót. Giống như những loài động vật hoang dã có vú khác trong Metatheria, chúng sinh ra những con non tương đối chưa tăng trưởng thường trú ngụ trong một cái túi nằm trên bụng mẹ trong một khoảng chừng thời hạn nhất định. Gần 70 % trong tổng số 334 loài còn sống sót ở lục địa Úc ( đất liền, Tasmania, New Guinea và những hòn đảo lân cận ). 30 % còn lại được tìm thấy ở châu Mỹ – hầu hết ở Nam Mỹ, 13 ở Trung Mỹ và một ở Bắc Mỹ, phía bắc Mexico .

Từ marsupial có nguồn gốc từ marsupium, thuật ngữ kỹ thuật cho túi bụng. Nó được vay mượn từ tiếng Latinh và cuối cùng là từ tiếng Hy Lạp cổ μάρσιππος mársippos, có nghĩa là “túi”.

Phân loại học[sửa|sửa mã nguồn]

Thú có túi được xác định về mặt phân loại là các thành viên của phân thứ lớp thú Marsupialia, lần đầu tiên được mô tả như một họ trong bộ Pollicata bởi nhà động vật học người Đức Johann Karl Wilhelm Illiger trong tác phẩm năm 1811 Prodromus Systematis Mammalium et Avium của ông. Tuy nhiên, James Rennie, tác giả cuốn Lịch sử tự nhiên của khỉ, Opossum và Vượn Cáo (1838), chỉ ra rằng vị trí của năm nhóm động vật có vú khác nhau – khỉ, vượn cáo, tarsier, khỉ Aye-aye và thú có túi (ngoại trừ kangaroo, được đặt trong bộ Salientia) – trong một bộ (Pollicata) dường như không có sự biện minh mạnh mẽ. Năm 1816, nhà động vật học người Pháp George Cuvier đã tuyên bố tất cả các loài thú có túi thuộc bộ Marsupialia.[1][2] Năm 1997, nhà nghiên cứu J. A. W. Kirsch và những người khác đã xếp hạng phân thứ lớp cho Marsupialia.[2] Có hai phân loại chính: thú có túi châu Mỹ (Ameridelphia) và thú có túi Úc (Australidelphia).[3]

Marsupialia được chia như sau:[3]

† – Tuyệt chủng
Con non được sinh ra rất sớm so với những loài động vật hoang dã có vú khác, như vậy thú có túi mẹ không cần tăng trưởng mạng lưới hệ thống phức tạp nhau thai, màng ối, dạ con … để bảo vệ con non trong khung hình mình. Thú có túi non thực sự rất nhỏ bé so với thiên nhiên và môi trường to lớn và nguy khốn ngoài khung hình mẹ, nhưng điều này lại làm giảm bớt rủi ro tiềm ẩn khi thú có túi mẹ không cần phải mang thai dài ngày. Do con non phải leo lên chỗ núm vú của mẹ nó, nên chi trước của chúng được tăng trưởng nhanh hơn những bộ phận khác trên khung hình lúc mới sinh .

  • Dữ liệu liên quan tới Marsupialia tại Wikispecies

Source: https://dvn.com.vn
Category : Kanragoo

Alternate Text Gọi ngay