“Không” có ý nghĩa gì? Trong ngôn ngữ thường ngày

“Không” có ý nghĩa gì? Trong ngôn ngữ thường ngày

Từ “không” trong ngôn ngữ thường ngày thường được sử dụng để biểu thị sự phủ định hoặc trạng thái không có hoặc thiếu điều gì đó. Nó có ý nghĩa chống lại hoặc không chấp nhận điều gì đó. Dưới đây là một số cách mà từ “không” có thể được sử dụng:

  1. Phủ định: “Không” thường được sử dụng để phủ định một phát biểu hoặc tình huống. Ví dụ: “Tôi không đi làm hôm nay” có nghĩa là tôi không đi làm.
  2. Thiếu hoặc không có: “Không” cũng có thể ám chỉ rằng có sự thiếu hoặc không có điều gì đó. Ví dụ: “Không có nước ở vòi” có nghĩa là vòi không có nước.
  3. Chống lại hoặc từ chối: Khi ai đó nói “Không!” trong một tình huống, họ thường đang từ chối hoặc phản đối điều gì đó.
  4. Trạng thái không xảy ra: “Không” cũng có thể biểu thị rằng một sự kiện không xảy ra. Ví dụ: “Không có mưa” có nghĩa là không có mưa rơi.

Từ “không” là một phần quan trọng của ngôn ngữ để truyền đạt thông tin phủ định, từ chối, hoặc trạng thái không xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.

Trong ngôn ngữ thường tình, từ “không” thuộc loại từ được nói và viết nhiều nhất, thường được dùng như: không là, không có, không phải, không làm, không nghĩ, không thích… đối lập với: là, có, phải, làm, nghĩ, thích… “Không” cũng có nghĩa “không có gì”, là rỗng. Dầu ý nghĩa như thế nào thì “không” đều đề cập đến thực thể, đến “có”, vì sự vật hay hiện tượng dầu có hay không có đó, thì vẫn động đến căn mắt và các căn khác.

Nhưng khi dùng từ “không” trong triết lý Phật giáo thì ý nghĩa vượt quá ngôn ngữ thường tình và chắc chắn trở nên khó hiểu, mông lung, khó tưởng tượng đối với mọi người, kể cả những Phật tử ít nhiều có tu tập; mà cũng khó chịu nữa, vì đầu óc cứ quen nghĩ chữ “không” thường tình. “Không” theo tiếng Phạn là Śūnyatā, tiếng Pali là Suññatā, dịch ra tiếng Anh bằng những thuật ngữ emptiness, nothingness, voidness (nói chung, theo nghĩa thông thường thì cũng có nghĩa là rỗng không như tiếng Việt và những ý nghĩa có thể suy ra từ đó). Mặt khác, ngay trong Phật giáo, các trường phái cũng diễn giải “không” theo nhiều cách khác nhau.

Bạn đang đọc: “Không” có ý nghĩa gì?

“Không” có ý nghĩa gì? Trong ngôn ngữ thường ngày

“Không” có ý nghĩa gì? Trong ngôn ngữ thường ngày

Từ “ không ” không phải đề cập đến một khoảng trống vật lý hay tâm ý hoặc một loại chủ nghĩa hư vô. Trong tầm cỡ Pali, gồm có một số ít tầm cỡ Phật giáo sớm nhất, Đức Phật thường phủ nhận sự sống sót của bản ngã bằng khái niệm về sự trống rỗng. Bản kinh nổi tiếng Milindapañha ( Mi-lan-đà phỏng vấn hay còn gọi là Na-tiên Tỳ-kheo ), có kể lại câu truyện mê hoặc về việc Tỳ-kheo Na-tiên đã giúp vua Mi-lan-đà nhận chân tính vô ngã của vạn sự và tất yếu là của “ cái tôi ” ( vô ngã ) bằng một thí dụ. Ngài chỉ vào cỗ xe của nhà vua rồi hỏi, “ Đâu là thực chất của cỗ xe ? Có phải ở trong bánh xe ? Ở trong gọng xe ? Trong trục xe ? Trong mui xe … ? Vậy, cỗ xe không có tự tính ”.

Tất nhiên, không có bộ phận cấu thành nào chứa bản chất của cỗ xe, và mỗi bộ phận được chia thành các phần nhỏ hơn cũng không có bản chất đơn lẻ. Giống như cỗ xe, cái “ngã” mà chúng ta rất coi trọng, không gì khác hơn là kết hợp tạm thời với nhiều thứ khác nhau, đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức – cái ngã đó là “không”. “Không” có thể hiểu như là “không có tự tính”. Chiếc xe không có tự tính vì nó không tồn tại như một thực thể riêng, độc lập. Xe như vậy thì người cũng như vậy, mọi pháp cũng như vậy.

Để ban đầu dễ quan niệm tính “không”, Đức Phật dùng ẩn dụ đơn giản khi nói đến cái nhà trống. “Này các tỳ-kheo, có những túp lều trống không, hãy thiền đi!”.

Người học Phật qua câu truyện đơn thuần này hoàn toàn có thể hiểu giáo pháp vô ngã cốt lõi của Phật giáo : giống như một căn phòng hoàn toàn có thể trống rỗng đồ vật, tâm và thân là trống rỗng cái ngã và của bất kể thứ gì thuộc về cái ngã.

Như vậy “không” là vô ngã, vô ngã là “không”. Đức Phật nói với vị thị giả A-nan về một trong hai bài pháp về không (Sunnata Sutta), “Ta thường ở trong tính không”, và tiếp tục diễn tả một lối tu tập thiền trong đó các đối tượng nhận thức dần dần trở nên tinh tế hơn cho đến khi người ta hiểu được rằng “lãnh vực này của nhận thức chỉ là trống rỗng”. Đến điểm đó, tính không gần như trở thành một từ đồng nghĩa với Niết-bàn, vốn được xác định trong nhiều kinh điển như là một tâm trống rỗng tham, sân, si.

Nhà triết học Phật giáo lỗi lạc, Bồ-tát Long Thọ, thuộc thế kỷ thứ II nâng cao tính không trong những chuyên luận của mình bằng cách rút ra những hàm ý của pháp Phật về vô thường và căn nguyên phụ thuộc vào. Tất cả mọi thứ đều trong tiến trình phát sinh và biến mất, khi nào cũng “ trở thành ” và như vậy không khi nào thực sự “ là ”. Bị điều kiện kèm theo hóa bởi rất nhiều nguyên do tương thuộc, mọi sự đều “ rỗng ” về bất kể loại thực chất độc lập hay bên trong và do đó chẳng cần giải nghĩa nào.

Các trường phái triết học Phật giáo sau này đã mở rộng khái niệm “không” để bao gồm tất cả các hiện tượng trên thế giới; điều này được thể hiện trong kinh điển Đại thừa, mà nổi tiếng nhất là Bát-nhã Tâm kinh. Trong bản kinh súc tích này, từ không được lặp đi lặp lai nhiều lần, với hàm ý tính không là cốt lõi của kinh, chẳng hạn: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị” (sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế), và nhiều nữa.

Mọi thứ đều nhờ vào vào cái gì khác, không có gì sống sót trong bất kể phương pháp độc lập và bền chắc nào. Kinh này liên tục dạy rằng “ không là thực chất của mọi pháp ”, từ đó, lan rộng ra quán sát tâm ý để nhận ra rằng nếu một người là trống rỗng cái ngã sẽ đi đến cái nhìn siêu hình tổng lực rằng mọi hiện tượng kỳ lạ đều trống rỗng tự thực chất. Một số phe phái Phật giáo còn đi xa hơn : mọi thứ tất cả chúng ta cảm nhận đều phụ thuộc vào vào tâm với nhận thức nó “ sống sót ” ( Nhất thiết duy tâm tạo ), và do đó trống rỗng về thực chất. Không có gì có thực thể – ngay cả những hạt li ti nhất tưởng tượng được cũng như chính tâm ta. Tất cả đều tương quan với nhau, toàn bộ đều “ không ”. Khi Đạo Phật Đại thừa gia nhập vào Nước Trung Hoa, rồi vào Nhật Bản thì khái niệm về tính không đã tăng trưởng theo ba hướng :

Thứ nhất

Cùng với ý tưởng sáng tạo bổ trợ về bản tính như-vậy ( tathata : chân như ), phe phái Thiên Thai đã làm phong phú tính không bằng cách tăng trưởng khái niệm về một Phật tính phổ quát tiềm ẩn nơi chúng sinh.

Thứ hai

Trường phái Hoa Nghiêm, bao trùm cả chân như và tính không, nhấn mạnh sự thâm nhập triệt để vào nhau của mọi hiện tượng.

Thứ ba

Trường phái dung hợp ý tưởng vô vi của Đạo giáo với vô vi ở Thiền Trung Quốc hay Zen Nhật Bản của Phật giáo, đã khuyến khích cách tiếp cận vô sắc của vô tâm hay vô niệm. (Thực ra, vô vi trong Phật giáo được dịch từ thuật ngữ asamskrta trong ngôn ngữ Sanskrit, có nghĩa là không nguyên nhân, không tạo tác, không kết hợp, không điều kiện, không bản chất, khác với vô vi của Đạo giáo).

Hiểu một cách đúng đắn, mọi thứ không sống sót ( kể từ khi chúng biến mất ) cũng không không sống sót ( kể từ khi chúng xảy ra ) ; đúng hơn, đơn thuần là trống rỗng – yên cầu một trực giác không-dựa-trên-khái-niệm của trí tuệ, như kensho ( kiến tánh ) hoặc satori ( ngộ ) của Nhật Bản. Kinh điển Phật giáo Đại thừa lấy tính không làm TT. Thế Phật giáo Nguyên thủy thì sao ? Tôi xin dẫn bài của thiền sư Thanissaro, một Tỳ-kheo tu tập, hành thiền và có nhiều tác phẩm điều tra và nghiên cứu về đạo Phật xuất bản ở phương Tây và được thông dụng trên quốc tế. “ Tính không là một kiểu nhận thức, một cách nhìn vào kinh nghiệm tay nghề. Nó không thêm gì vào, và không lấy gì đi, từ tài liệu thô của những sự kiện sức khỏe thể chất và niềm tin. Bạn nhìn vào những sự kiện trong tâm và những giác quan mà không nghĩ đến việc liệu có bất kỳ điều gì nằm đằng sau chúng hay không. Tính này được gọi là không vì nó trống rỗng những giả định mà tất cả chúng ta thường thêm vào kinh nghiệm tay nghề để tạo cảm xúc về nó : đó là những câu truyện và thế giới quan mà tất cả chúng ta làm rập theo khuôn để lý giải tất cả chúng ta là ai và quốc tế tất cả chúng ta đang sống là gì. Mặc dầu những câu truyện và quan điểm đó có những tác dụng của chúng, Đức Phật phát hiện ra rằng những câu hỏi mà chúng nêu lên – về truyền thống thật của tất cả chúng ta và thực thể của quốc tế bên ngoài – đã kéo sự chú ý quan tâm ra khỏi kinh nghiệm tay nghề trực tiếp về những sự kiện ảnh hưởng tác động lẫn nhau ngay tức khắc trước mắt. Do đó, chúng gây trở ngại khi tất cả chúng ta cố gắng nỗ lực hiểu và xử lý yếu tố đau khổ. Chẳng hạn, nói rằng bạn đang thiền và một cảm xúc tức giận nhằm mục đích vào mẹ bạn Open. Ngay lập tức, phản ứng của tâm bạn là đồng nhất cơn giận như là cơn giận “ của tôi ”, hay nói rằng “ tôi là ” giận. Sau đó, nó thêm thắt về cảm xúc, hoặc đưa nó vào câu truyện về mối quan hệ của bạn với mẹ, hoặc theo quan điểm tổng quát của bạn về thời gian và nơi mà sự tức giận so với mẹ của ai đó hoàn toàn có thể được biện minh cho mình. Theo Đức Phật, những câu truyện và quan điểm này kéo theo rất nhiều đau khổ. Bạn càng tham gia vào chúng, bạn càng bị quẫn trí khi thấy nguyên do thực sự của đau khổ : đó là những nhãn “ tôi ” và “ của tôi ” đã đặt vào trong hàng loạt quy trình hoạt động. Kết quả là, bạn không hề tìm thấy cách để làm sáng tỏ nguyên do đó và đưa sự đau khổ đến kết thúc. Tuy nhiên, nếu bạn vận dụng kiểu trống rỗng – bằng cách không hành vi, cũng không phản ứng với cơn giận – mà đơn thuần chỉ xem nó như một chuỗi những sự kiện, ở trong và của chính những chuỗi đó, bạn hoàn toàn có thể thấy rằng cơn giận là trống rỗng, chẳng có gì đồng điệu với nó hay chiếm hữu nó. Khi bạn làm chủ kiểu trống rỗng này một cách kiên trì hơn, bạn sẽ thấy rằng thực sự này không chỉ dành cho những xúc cảm thô thiển như cơn giận, mà còn cho cả những sự kiện tinh xảo nhất trong địa hạt kinh nghiệm tay nghề ”. Phải chăng thiền Tứ Niệm Xứ, một pháp thiền do chính Đức Phật lập ra, nhằm mục đích quán chiếu thân và tâm, trước hết là thiền hơi thở, sẽ giúp ta làm chủ kiểu trống rỗng này một cách kiên cường ? Nhiều Phật tử và không Phật tử có một số ít vốn liếng văn hóa truyền thống và tri thức ở đời, thường hay tìm tòi tra cứu giáo lý đến từng chữ nghĩa. Điều đó là tự nhiên, hài hòa và hợp lý, nhưng theo thiển ý, có đọc hoài cũng không hết vướng mắc. Tuy nhiên, nếu đọc Phật, chiêm nghiệm cuộc sống, sống trong Tam bảo, nhìn về thân giáo của những vị thầy … thì học và hành liên kết giúp ta tăng tiến trên đường đạo, và cảm nhận về “ không ” nhẹ nhàng đến với ta, khi này hoặc khi khác, mà ta không cần biết. Đây mới là quan trọng, chứ giáo lý thì bát ngát, dầu không nắm hết mọi cơ bản thì không có gì lạ … Cũng tùy duyên thôi !

Trở lại với tính Không, quan niệm của Thiền sư Thanissaro thật là gần gũi với đời sống, gợi ra một chỉ dẫn trên con đường tu. Từ nền tảng này, dần dần ta có thể thâm nhập thêm tính Không của Phật giáo đại thừa. Dầu sao tính Không nói chung cho ta cách sống, là hãy bớt cái ngã đi, bớt tham sân si đi, đừng vơ vào những cái “ta”, cái “của ta” không thực có, để ta hít thở không khí trong lành một cách tự nhiên mà không cần phân tích.

Tài liệu sử dụng: 1. Andrew Olendzki, What’s in a Word? Emptiness, Tricycle, Winter 2018. 2. Thanissaro Bhikkhu, What Do Buddhists Mean When They Talk About Emptiness?, Tricycle, Spring 2017

Cao Huy Hóa | Văn Hóa Phật Giáo Số 34 ngày 01-12-201 9 – Thư Viện Hoa Sen nhập lưu

Source: https://dvn.com.vn
Category: Hỏi Đáp

Alternate Text Gọi ngay