tóm tát luân án tiến sĩ hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở – Tài liệu text

tóm tát luân án tiến sĩ hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.43 KB, 27 trang )

Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THƯ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 62.38.50.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2013
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Mai Hồng Quỳ
2. PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Như Phát
Phản biện 3: PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện khoa học xã hội vào hồi… giờ, ngày 30
tháng 11 năm 2013
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Khoa học xã hội.
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thư, “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
8 năm 2009, tr.39-45
2. Nguyễn Thị Thư, “Về một số quyền của người tiêu dùng theo pháp

luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 11 năm 2011, tr.55-59
3. Nguyễn Thị Thư, “Đặc điểm của quan hệ tiêu dùng và pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 10 năm 2012, tr.86-90
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người tiêu dùng là tất cả chúng ta, với tư cách là con người chúng
ta có quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản Hơn nữa, NTD
đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc
gia, thế nhưng trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh thì người tiêu dùng luôn ở vị thế yếu hơn so với nhà sản xuất,
kinh doanh và luôn có nguy cơ gánh chịu rủi ro, thiệt hại trong quan hệ
tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ.
Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quyền
lợi của NTD ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng. Vì nhu cầu lợi nhuận,
đạo đức kinh doanh suy đồi, không ít nhà cung cấp đã lạm dụng ưu thế
của mình để khai thác, bóc lột, lừa dối người tiêu dùng bằng rất nhiều
hình thức: sản phẩm không đúng chất lượng, không đủ số lượng, quảng
cáo gian dối, và hơn thế nữa, tính mạng, sức khỏe NTD đứng trước sự
đe dọa bởi thực phẩm độc hại, sản phẩm không an toàn.
Mặc dù Luật Bảo vệ quyền lợi NTD được thông qua và có hiệu
lực từ ngày 1/7/2011, nhưng cho đến nay quyền lợi của NTD vẫn đang
tiếp tục bị vi phạm trầm trọng. Luật BVQLNTD đã trao cho NTD Việt
Nam nhiều “đặc quyền” hơn so với những quy định của Pháp lệnh
BVQLNTD 1999 với sự bổ sung của nhiều quy định quan trọng như
trách nhiệm sản phẩm, điều kiện giao dịch chung, một số ngoại lệ khi
giải quyết tranh chấp tại tòa án Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau,
Luật BVQLNTD năm 2010 vẫn chưa phải là một sản phẩm “hoàn hảo”,
là một công cụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi ích hợp pháp của NTD hiện

nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật
BVQLNTD, cũng như thực tiễn thực thi, áp dụng pháp luật BVQLNTD
là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra định hướng, giải pháp cụ thể
1
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật BVQLNTD trong giai đoạn hiện nay
có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
– Mục đích của luận án: Làm sáng tỏ vấn đề lý luận về NTD,
quyền cơ bản của NTD, nghĩa vụ của các chủ thể khác, quan hệ tiêu
dùng và pháp luật BVQLNTD; Đánh giá thực trạng pháp luật
BVQLNTD cũng như việc thực thi pháp luật BVQLNTD sau một năm
thực hiện Luật BVQLNTD trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.
– Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: Làm rõ cơ sở lý luận NTD,
quan hệ tiêu dùng, các quyền của NTD, nghĩa vụ của các chủ thể khác
trong hệ thống pháp luật BVQLNTD cũng như vai trò, vị trí của NTD,
pháp luật BVQLNTD trong hệ thống pháp luật Việt Nam; Nghiên cứu
so sánh sự ghi nhận quyền và bảo vệ quyền lợi NTD ở một số quốc gia
trên thế giới, những vấn đề pháp lý nảy sinh và rút ra kinh nghiệm cho
Việt Nam. Phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng áp dụng pháp luật
BVQLNTD ở Việt Nam, qua đó nêu rõ những bất cập, hạn chế và
nguyên nhân của chúng; Phân tích, đánh giá xu hướng vận động của
pháp luật BVQLNTD hiện nay trên thế giới, đưa ra định hướng cho việc
hoàn thiện pháp luật BVQLNTD của Việt trong giai đoạn hội nhập kinh
tế quốc tế. Nghiên cứu và đề xuất phương hướng, những giải pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện pháp luật BVQLNTD ở phương diện thực thi các
quyền của NTD có hiệu quả khi tham gia vào các quan hệ tiêu dùng với
các nhà sản xuất kinh doanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là những nội dung pháp luật

liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD; thực tiễn xây dựng và thực
thi pháp luật BVQLNTD ở Việt Nam; kinh nghiệm thế giới trong xây
dựng pháp luật BVQLNTD. Việc so sánh, đối chiếu quy phạm được
2
giới hạn ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Mỹ,
Canada, EU. Đối với các nước đang phát triển, việc so sánh chú trọng
tới pháp luật các nước nằm trong khu vực hay các nước có sự tương
đồng với Việt Nam về kinh tế, chính trị, văn hóa.
– Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật BVQLNTD là một lĩnh vực rất
rộng lớn, bao gồm rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nhiều
lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi một luận án không thể
phân tích hết các vấn đề đó. Như mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã
trình bày ở trên, luận án đặt trọng tâm nghiên cứu những vấn đề mang
tính lý luận, đánh giá tính phù hợp, thống nhất, hợp lý và khả thi của
Luật BVQLNTD và các văn bản hướng dẫn sau một năm thực thi.
Ngoài ra, luận án tập trung nghiên cứu một số quy định mang tính đặc
thù của pháp luật BVQLNTD ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế nhằm
đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, góp phần giải
quyết triệt để những điểm khuyết trong lý luận cũng như trong thực tiễn
áp dụng của pháp luật BVQLNTD của Việt Nam. Những nội dung liên
quan đến thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật, luận án sẽ nghiên
cứu nhưng giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
4. Những điểm mới của luận án
Thứ nhất: Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống khái niệm về
NTD, quan hệ tiêu dùng, pháp luật BVQLNTD; Phân tích vị trí vai trò
của NTD cũng như sự cần thiết phải bảo vệ NTD; Làm rõ bản chất của
quan hệ tiêu dùng, vị trí và vai trò của pháp luật BVQLNTD trong hệ
thống pháp luật, giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề mang tính
lý luận của pháp luật BVQLNTD, đồng thời xác định được những nội
dung không thể thiếu được coi là nội hàm mà lĩnh vực pháp luật này

buộc phải có.
Thứ hai: Luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách có hệ
thống và toàn diện thực trạng pháp luật BVQLNTD của Việt Nam. Trên
3
cơ sở đó chỉ ra sự khiếm khuyết, bất hợp lý cần sửa đổi, bổ sung của
pháp luật BVQLNTD sao cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền
kinh tế thị trường cũng như phù hợp với điều kiện văn hóa, xã hội và
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế.
Thứ ba: Luận giải và đề xuất cụ thể, toàn diện các giải pháp nhằm
đáp ứng được yêu cầu bảo vệ hữu hiệu NTD khi quyền lợi của họ bị
xâm phạm khá nghiêm trọng như trong bối cảnh hiện nay; Đưa ra định
hướng, các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
ở Việt nam hiện nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học và
khá toàn diện những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn làm cơ sở
xây dựng, hoàn thiện pháp luật BVQLNTD. Là sự đóng góp không nhỏ
trong việc hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, đảm bảo trật tự và công
bằng xã hội. Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật
BVQLNTD nói chung và đạo luật BVQLNTD nói riêng.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm 4 chương:
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

BVQLNTD chỉ thực sự được quan tâm vào những năm 60 của thế kỷ
XX, khi tình trạng xâm phạm quyền lợi NTD trở nên nhức nhối. Theo đó,
4
hàng loạt các công trình ra đời như: W. David Slawson với “Standard
Form Contracts and Democratic Control of Lawmaking Power”, Vol.
84 Harvard Law Review 529, 529 (1971) ở Mỹ; “Notarielle
Verbrauchervertraege” của Britta Carmen Deimel, Nxb. Dr. Kovac,
2003. Bảo vệ quyền lợi NTD đã trở thành xu thế toàn cầu, nhanh chóng
lan tỏa đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Một số nghiên cứu tiêu biểu
như: Gralf-Peter Calliess với “Coherence and Consistency in European
Consumer Contract Law: a Progress Report”, Frankfurt am Main,
2003; Sir John Vickers với “Contracts and European consumer law: an
OFT perspective”, Oxford 2005; Michael G. Faure & Hanneke A.Luth
với “Behavioural Economics in Unfair Contract Terms Cautions and
Considerations”, The Author(s) 2011;
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu rất đa dạng như sách tham khảo, bài
báo, giáo trình, báo cáo khảo sát thực tế và theo các nhóm vấn đề sau:
– Nhóm công trình nghiên cứu từ góc độ luật cạnh tranh như:
Nguyễn Như Phát “Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9 năm
2000; Ngô Vĩnh Bạch Dương, “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
pháp luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2000.
– Nhóm nghiên cứu lý luận về pháp luật BVQLNTD: Đề tài cấp
bộ “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, do TS. Đinh Thị Mỹ Loan chủ
nhiệm năm 2006; “Giáo trình luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”
của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, 2012…
– Nhóm các công trình nghiên cứu các thiết chế BVQLNTD như:
Đinh Ngọc Vượng“Quyền của người tiêu dùng và trách nhiệm của các

cơ quan nhà nước”, báo cáo tại Hội thảo quốc tế tháng 2/2008; Lê
Hồng Hạnh, “Thực trạng pháp luật của Việt Nam về các thiết chế bảo
5
vệ quyền lợi người tiêu dùng”, báo cáo tại hội thảo Bảo vệ NTD– kinh
nghiệm từ pháp luật của Đức và liên minh Châu Âu, tháng 7/2010…
– Nhóm công trình nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế như:
Chuyên đề “Cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng: thực tiễn Việt Nam
và kinh nghiệm quốc tế”, tháng 8/2007 của Viện khoa học pháp lý; Tài
liệu Hội thảo “Bảo vệ người tiêu dùng- kinh nghiệm từ pháp luật của
Đức và liên minh châu âu với Việt nam”, tháng 7/2010.
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Đến nay, chưa có công trình khoa học ở cấp độ tiến sĩ nghiên cứu,
đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề lý luận của pháp luật
BVQLNTD; thực trạng pháp luật BVQLNTD sau một năm thực hiện
Luật BVQLNTD, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
bảo vệ quyền lợi NTD. Chính vì vậy, luận án không trùng lặp với bất kỳ
công trình nghiên cứu nào đã thực hiện trước đây, việc nghiên cứu đề tài
luận án có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo vệ con người,
BVQLNTD trong giai đoạn hiện nay. Lý thuyết về các quyền cơ bản
của NTD với tư cách là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Lý
thuyết về bảo vệ kẻ yếu trong mối tương quan với kẻ mạnh nhằm đảm
bảo sự công bằng xã hội. Đây là những lý thuyết có ảnh hưởng rất lớn
tới việc xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật BVQLNTD nói riêng
của các quốc gia, kể cả Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo đó, luận án
sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp hệ
6
thống, phân tích và tổng hợp, luật học so sánh, khảo sát, phương pháp
lịch sử cụ thể…Để hoàn thành mục đích nghiên cứu thì có sự kết hợp
giữa các phương pháp trong từng phần của luận án, phương pháp phân
tích và tổng hợp được sử dụng nhiều nhất trong luận án. Đối với mỗi
mục sẽ được sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ đạo khác nhau.
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN
LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
2.1. Quan niệm về người tiêu dùng
2.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Trên cơ sở nghiên cứu các quan niệm về NTD, luận án đưa ra
khái niệm về NTD như sau: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân”. Theo đó,
NTD có các đặc điểm sau: (i) Về chủ thể, NTD phải là cá nhân hay nói
cách khác là tự nhiên nhân; (ii) Sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân; (iii) Quan hệ tiêu dùng được xác lập
thông qua hợp đồng mua bán, cung ứng dịch vụ hoặc phát sinh trên cơ
sở sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
2.1.2. Vị trí, vai trò của người tiêu dùng
NTD là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, NTD quyết định
hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân sẽ sản xuất, kinh doanh và góp
phần quyết định giá cả, số lượng, chất lượng hàng hoá. Ngoài ra, NTD
là tất cả chúng ta, là những con người – trung tâm của những mối quan
tâm về sự phát triển toàn diện và lâu dài, vì thế NTD có quyền được
hưởng một cuộc sống hạnh phúc và lành mạnh, có quyền được hưởng
các sản phẩm an toàn, phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình.
2.1.3. Quan hệ tiêu dùng

7
Quan hệ tiêu dùng là quan hệ dân sự được thực hiện trên cơ sở
hợp đồng mua bán, theo đó, NTD mua và/hoặc sử dụng hàng hóa, dịch
vụ đó không vì mục đích kinh doanh. Quan hệ tiêu dùng có các đặc
điểm sau:(i) Có ít nhất một bên là NTD; (ii) Sử dụng hàng hóa, dịch vụ
cho mục đích tiêu dùng cá nhân; (iii) Là một quan hệ bất bình đẳng và
NTD khó có quyền tự do khế ước; (iv) NTD luôn bị chèn ép và gánh
chịu rủi ro trong hợp đồng mẫu, điều kiện thương mại chung. Chính vì
các đặc điểm này mà các quy định của dân luật truyền thống không thể
và không nên áp dụng cho quan hệ tiêu dùng.
2.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng
2.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Sau khi nghiên cứu, luận án đưa ra khái niệm pháp luật
BVQLNTD như sau: “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là hệ thống
các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng”.
2.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Thứ nhất, pháp luật BVQLNTD có “biên giới” với rất nhiều
ngành luật khác nhau. Hệ thống quy phạm pháp luật BVQLNTD tồn tại
ở nhiều ngành luật khác nhau bao gồm luật dân sự, luật hành chính và
luật hình sự. Và nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau
trong lĩnh vực cạnh tranh, quảng cáo, đo lường chất lượng sản phẩm, an
toàn vệ sinh thực phẩm
Thứ hai, pháp luật BVQLNTD là một lĩnh vực luật công được
dùng để điều chỉnh quan hệ tư giữa thương nhân và NTD. Pháp luật
BVQLNTD thể hiện sự can thiệp của nhà nước vào quan hệ pháp luật
dân sự nhằm bảo vệ NTD được xem là “kẻ yếu” trong mối quan hệ với
thương nhân khi thực hiện các giao dịch dân sự.

8
Thứ ba, pháp luật BVQLNTD có rất nhiều quy định đặc biệt và
ngoại lệ so với dân luật truyền thống. Đó chính là những ngoại lệ về
miễn tạm ứng án phí, xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc đảo nghĩa vụ
chứng minh cho NTD…
2.2.3. Vị trí của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong hệ thống pháp luật
Trong hệ thống pháp luật BVQLNTD thì Luật BVQLNTD có vai
trò quan trọng đặc biệt, giữ vị trí trọng tâm trong hệ thống pháp luật
BVQLNTD. Luật BVQLNTD quy định những vấn đề cơ bản nhất và
một số chế định đặc thù của pháp luật bảo vệ NTD. Những quy định
khác liên quan đến bảo vệ NTD mà không được quy định trong Luật
Bảo vệ NTD sẽ được dẫn chiếu, thông qua các quy định của pháp luật
về cạnh tranh, quảng cáo, chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đây là xu hướng làm luật của đa số
các quốc gia trên thế giới.
2.3. Mô hình pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
2.3.1. Một số mô hình pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trên thế giới
Qua nghiên cứu mô hình pháp luật của một số quốc gia phát triển
như: Hoa Kỳ, Australia, Vương quốc Anh hay các nước trong khu vực
như Thái Lan, Indonesia Từ đó, luận án rút ra một số kết luận là kinh
nghiệm về phương pháp điều chỉnh pháp luật, có thể tham khảo cho
Việt Nam như sau: (i) Điều chỉnh pháp luật về BVQLNTD là hiện
tượng phổ biến tại các quốc gia; (ii) Hệ thống pháp luật BVQLNTD
(trực tiếp và gián tiếp) là khá đa dạng, được quy định tại nhiều văn bản
pháp luật khác nhau. Trong đó, đạo luật riêng về BVQLNTD được coi
là trung tâm của chế định pháp luật; (iii) Pháp luật mang tính chất “can
thiệp” vào quan hệ tư, ưu tiên BVQLNTD.
9

2.3.2. Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở
Việt Nam
Quan hệ tiêu dùng có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, xã hội, đồng nghĩa với sự xuất hiện của NTD trong tất cả các
quan hệ này.Thế nên hệ thống pháp luật BVQLNTD bao gồm nhiều văn
bản luật liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật quảng cáo;
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật đo lường; Luật tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật; Luật an toàn thực phẩm; Bộ Luật Dân sự và Bộ
Luật Tố tụng dân sự, Luật BVQLNTD Trong đó, Luật BVQLNTD giữ
vị trí trọng tâm, quy định những vấn đề cơ bản nhất và một số chế định
đặc thù, những vấn đề khác không được quy định trong Luật Bảo vệ
NTD sẽ được dẫn chiếu, thông qua các quy định của pháp luật về cạnh
tranh, quảng cáo, chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm…
2.4.Cấu trúc nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng
Hiện nay Liên Hiệp quốc và nhiều nước trên thế giới đã công
nhận NTD có tám quyền sau: (i) Quyền được thỏa mãn những nhu cầu
cơ bản, đó là quyền được tiếp cận với những hàng hoá, dịch vụ thiết
yếu; (ii) Quyền được an toàn, được có những hàng hoá, dịch vụ không
gây nguy hiểm cho sức khoẻ, tính mạng hay tổn hại đến tinh thần; (iii)
Quyền được cung cấp những thông tin trung thực, chính xác và đầy đủ
về hàng hoá, dịch vụ; (iv) Quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ phù hợp
với khả năng và nhu cầu của bản thân; (v) Quyền được lắng nghe, được
bày tỏ ý kiến đối với cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh doanh trong
việc liên quan đến lợi ích của NTD; (vi) Quyền được khiếu nại và bồi
thường; (vii) Quyền được giáo dục và đào tạo về tiêu dùng; (viii) Quyền
được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
10
Bên cạnh các quyền được ghi nhận, NTD có trách nhiệm phát

hiện, phê bình và đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật nói chung
và pháp luật BVQLNTD nói riêng; Có ý thức cộng đồng, xã hội cũng
như hiểu biết về tiêu dùng và môi trường.
2.4.2.Trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà sản xuất, cung cấp
hàng hóa, dịch vụ
Quyền lợi của NTD có được đảm bảo hay không phụ thuộc vào
thái độ, hành vi tuân thủ pháp luật của nhà kinh doanh. Họ là chủ thể trực tiếp
xâm hại đến quyền lợi của NTD. Vì vậy, để cho quyền lợi của NTD được
đảm bảo, tổ chức, cá nhân kinh doanh có các nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ bảo
đảm chất lượng, số lượng và sự an toàn của hàng hóa, dịch vụ; Nghĩa
vụ thông tin, quảng cáo chính xác và trung thực về hàng hóa, dịch vụ;
Nghĩa vụ bảo hành; Nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho NTD; Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại; giải quyết khiếu nại cho NTD; Trách nhiệm do
việc áp đặt các điều kiện giao dịch chung; Trách nhiệm sản phẩm.
2.4.3. Trách nhiệm từ phía Nhà nước
Nhà nước là chủ thể của quyền lực công, có trách nhiệm duy trì,
bảo vệ trật tự chung xã hội, bảo vệ kẻ yếu và đảm bảo công bằng xã hội.
Vì vậy, để BVQLNTD cơ quan quản lý Nhà nước có nghĩa vụ kiểm tra,
giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BVQLNTD. Ngoài ra, để
các cơ quan nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, cũng cần đặt ra
trách nhiệm của Nhà nước trong trường hợp không hoàn thành nghĩa vụ
của mình.
2.4.4. Trách nhiệm của tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng
Xã hội hóa hoạt động BVQLNTD là điều tất yếu trong xu thế hội
nhập, phát triển hiện nay, trong đó vai trò của các tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp là rất quan trọng. Cần có những quy định “ưu
ái” hơn để các tổ chức này có thể thực hiện tốt, hiệu quả hoạt động
BVQLNTD.
11
2.4.5. Những biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng
Có thể thấy đây là những quy định khá đặc thù để thực thi pháp
luật BVQLNTD một cách hiệu quả. Theo đó bao gồm: (i) Thu hồi hàng
hóa có khuyết tật: Người cung cấp hàng hóa có trách nhiệm bằng mọi
biện pháp cần thiết ngừng việc cung cấp và thu hồi hàng hóa có khuyết
tật trên thị trường; (ii)Trách nhiệm sản phẩm: Tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD trong
trường hợp hàng hóa mình cung cấp có khuyết tật kể cả khi họ không có
lỗi trong việc phát sinh khuyết tật; (iii) Chống hành vi thương mại
không lành mạnh; (iv) Giải quyết tranh chấp với NTD theo thủ tục đơn
giản hoặc khởi kiện tập thể, đảo nghĩa vụ chứng minh lỗi cho nhà kinh
doanh; (v) Chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
3.1.Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
3.1.1. Trước khi có Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Các quy định điều chỉnh quan hệ tiêu dùng giữa NTD và thương
nhân chưa xem NTD là bên “yếu thế” hơn. Thế nên, pháp luật dân sự
được áp dụng vào quan hệ này mà chưa có những chế định đặc thù, dẫn
đến sự bất hợp lý, bất công, không hiệu quả trong công tác BVQLNTD.
3.1.2. Sau khi có Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Pháp luật BVQLNTD được xây dựng trên nguyên tắc ưu tiên lợi
thế cho NTD. Luật BVQLNTD đã khắc phục khiếm khuyết của pháp
luật BVQLNTD trước đó bằng việc bổ sung nhiều chế định đặc thù
như: trách nhiệm sản phẩm, kiểm soát hợp đồng mẫu, một số ngoại lệ
12
khi giải quyết tranh chấp tại tòa án Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế
như sau:
1. Đối tượng bảo vệ của pháp luật BVQLNTD quá rộng, ngoài cá

nhân thì NTD còn là tổ chức. Điều này không hợp lý, thiếu thuyết phục
bởi lẽ tổ chức không rơi vào thế “kẻ yếu” trong quan hệ tiêu dùng,
không phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra đối tượng bảo vệ quá
rộng làm lãng phí nguồn lực BVQLNTD của nhà nước;
2. Chưa xác định được phạm vi các giao dịch của NTD được bảo
hộ bởi pháp luật BVQLNTD. Khái niệm “hàng hóa”, “dịch vụ” không
có trong Luật BVQLNTD, mà quy định của các đạo luật có liên quan
thì không thống nhất về nội hàm, gây khó khăn trong việc thi hành pháp
luật BVQLNTD;
3. Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của NTD chưa
được ghi nhận; Quyền được giáo dục về tiêu dùng không có quy định cụ
thể nên khó thực hiện;
4. Nghĩa vụ kiểm tra và thông báo vi phạm của NTD không được
cụ thể hóa, không có cơ chế đảm bảo thực hiện và NTD chưa có khả
năng thực hiện;
5. Thương nhân chỉ thực hiện việc bảo hành hàng hóa khi có thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định. Điều này bất công với NTD vì NTD
không “đủ sức” để thỏa thuận;
6. Giới hạn phạm vi miễn trừ trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra của thương nhân chưa đầy đủ, cần quy định thêm để
đảm bảo công bằng, hài hòa lợi ích cho nhóm này; Chưa xác định được
thương nhân nào chịu trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây
ra trong trường hợp hàng hóa qua nhiều công đoạn sản xuất bởi các
thương nhân khác nhau; NTD không đủ khả năng để tìm ra khuyết tật
của hàng hóa là nguyên nhân gây thiệt hại, vì vậy không thể chứng
minh mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật của hàng hóa và thiệt hại.
13
Điều này đồng nghĩa với việc không xác định được chủ thể chịu trách
nhiệm BTTH cho NTD;
7. Hiện nay, chỉ có 9 loại hàng hóa, dịch vụ quy định tại Quyết

định số 02/2012/QĐ-TTg mới đăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC. Thế
nhưng, vẫn còn rất nhiều loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của số đông NTD và/hoặc cũng được cung cấp
bởi các nhóm độc quyền nhưng chưa được yêu cầu đăng ký hợp đồng
mẫu, ĐKGDC. Điều này không hợp lý và chưa đảm bảo được quyền lợi
NTD; Trường hợp những hợp đồng mẫu, ĐKGDC đã được chấp nhận
đăng ký bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vẫn còn tồn tại
những điều khoản bất công, trái với quy định của pháp luật về
BVQLNTD và gây thiệt hại cho NTD thì ai là người chịu tránh nhiệm
BTTH cho NTD, thương nhân hay cơ quan quản lý nhà nước đã thẩm
định, chấp nhận hợp đồng theo mẫu, ĐKGDC đó? vấn đề này Luật chưa
quy định; Ngoài ra, quy định về hình thức của hợp đồng mẫu trong
Nghị định 99/2011/NĐ-CP và Nghị định 19/2012/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVQLNTD tỏ ra mâu thuẫn,
chưa đảm bảo tính thống nhất của pháp luật;
8. Luật chưa xác định bản chất, địa vị pháp lý và nguyên tắc tổ
chức hoạt động của tổ chức BVQLNTD (do hội này không có hội viên
nên khó có thể áp dụng pháp luật về hội hiện hành); Thiếu những quy
định về điều kiện đảm bảo thực thi các quyền và nghĩa vụ của hội, đặc
biệt là về nguồn tài chính. Ngoài ra, cũng cần giải thích khái niệm “ vì
lợi ích công cộng”, vì đây là điều kiện để hội được khởi kiện vụ án
BVQLNTD;
9. Quy định về giải quyết tranh chấp của NTD theo thủ tục đơn
giản tại khoản 2 Điều 41 Luật BVQLNTD không khả thi, không thể
thực hiện được vì Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 vẫn chưa
thừa nhận thủ tục này. Ngoài ra, Luật có sự phân biệt không hợp lý giữa
14
NTD là cá nhân và NTD là tổ chức, gia đình trong hợp đồng mẫu,
ĐKGDC. Theo đó, NTD là cá nhân thì có quyền bảo lưu điều khoản giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài và có quyền chọn phương thức giải quyết

tranh chấp khác, còn NTD là tổ chức, gia đình thì không có quyền này;
10. Trong thiết chế thực thi pháp luật về BVQLNTD của nước ta
không tồn tại một cơ quan chuyên trách và thống nhất. Theo đó, Bộ
Công Thương, mà đại diện là Cục quản lý cạnh tranh có trách nhiệm tổ
chức, thực hiện chiến lược, phối hợp các cơ quan, tổ chức có liên quan
(chủ yếu là các Bộ). Điều này làm giảm tính hiệu lực của hoạt động quản lý
nhà nước trong công tác BVQLNTD, bởi lẽ đặc trưng của hoạt động quản
lý nhà nước phải là mệnh lệnh, chỉ đạo, phục tùng. Ngoài ra, tuy có
nhiều cơ quan có nhiệm vụ liên quan công tác BVQLNTD nhưng cơ chế
phối hợp không rõ ràng;
11. Chế tài hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật
BVQLNTD chưa đủ sức răn đe, giáo dục và hạn chế hành vi vi phạm. Mức
phạt tiền đối với các hành vi vi phạm là quá thấp so với sự phát triển kinh
tế hiện nay. Ngoài ra, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trao cho tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền còn rất thấp, gây khó khăn trong công tác
thực thi pháp luật BVQLNTD của các chủ thể này.
Những bất cập, hạn chế nêu trên đã được luận án phân tích một
cách chi tiết và chỉ rõ nguyên nhân của những nhược điểm đó
3.2.Thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
Sau hơn một năm thực thi Luật BVQLNTD, tình trạng xâm phạm
quyền lợi NTD vẫn tiếp tục gia tăng trong hầu hết các lĩnh vực của đời
sống như: phân bón giả; Ban quản lý tòa nhà tùy tiện tăng phí dịch vụ;
các phòng khám tư nhân quảng cáo rầm rộ nhưng nhiều bệnh nhân bị
“chém”, tiền mất tật mang; bán hàng lừa đảo; pha tạp chất vào xăng.
Trong đó đáng báo động là lĩnh vực an toàn thực phẩm: như bữa ăn tại
15
trường mẫu giáo quốc tế không đảm bảo; sữa nhiễm melamine, thịt lợn
có chất tạo nạc bị cấm, mỹ phẩm giả các thương hiệu nổi tiếng, sản xuất
giá ăn bằng hóa chất, trái cây, rau, củ thì bị tẩm quá nhiều chất độc, cá

dính chất cấm Trifluralin, ruốc, mắm tép được làm từ thịt thối…
Thực tiễn thi hành pháp luật BVQLNTD thể hiện qua thái độ, ý
thức của các chủ thể thực thi pháp luật BVQLNTD như sau: (i) Ý thức
pháp luật của NTD rất kém, đại bộ phận NTD thiếu thông tin về pháp
luật, hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình hoặc tỏ ra thờ ơ với pháp
luật BVQLNTD. Hầu hết thiếu tự tin trong tiếp cận công lý; (ii)Tổ chức
bảo vệ người tiêu dùng hoạt động kém hiệu quả do thiếu nhân lực và tài
chính. Các tổ chức ở các địa phương khác nhau chưa có sự phối hợp
hoạt động và chưa phải là chỗ dựa cho NTD; (iii) Việc vi phạm pháp
luật BVQLNTD của các tổ chức, cá nhân kinh doanh gia tăng, đặc biệt
trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Rất nhiều thương nhân không
đăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC và lạm dụng vị trí thống lĩnh và độc
quyền chèn ép NTD; (iv) Việc thực thi pháp luật BVQLNTD của các cơ
quan Nhà nước yếu kém, lúng túng, thụ động và chưa thực sự đủ tầm
điều chỉnh và quản lý các vấn đề phát sinh; Chưa có cơ chế chỉ đạo và
phối hợp hiệu quả, ngoài ra, hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước về
BVQLNTD đều gặp khó khăn về nguồn nhân lực vì phải kiêm nhiệm.
Các vấn đề nói trên được luận án phân tích, đánh giá một cách
khoa học, công phu, chi tiết và chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại đó.
CHƯƠNG 4
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
Từ kết quả nghiên cứu ở chương 3 của luận án cho thấy, pháp luật
16
BVQLNTD ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những hạn chế, bất cập đòi
hỏi phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Việc hoàn thiện pháp luật xuất
phát, bắt nguồn từ các nhu cầu sau: Nhu cầu bảo vệ quyền lợi NTD;
Nhu cầu đảm bảo thực hiện quyền con người; Nhu cầu điều chỉnh hành

vi của nhà sản xuất, kinh doanh; Nhu cầu nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước, quản lý xã hội; Nhu cầu xây dựng một xã hội và nền kinh tế văn
minh, hiện đại; Nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân,
vì dân; Nhu cầu hội nhập quốc tế và thực hiện điều ước quốc tế.
Luận án đã trình bày, phân tích và làm sáng tỏ các nhu cầu nói
trên để nhận thấy sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật
BVQLNTD ở Việt Nam hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật BVQLNTD xuất phát từ những đòi hỏi, nhu
cầu đã nêu, tuy nhiên pháp luật BVQLNTD sau khi được hoàn thiện
phải đảm bảo những chuẩn mực, những giá trị nhất định phù hợp với
điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam hiện nay.
4.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng
Hoàn thiện pháp luật BVQLNTD nhất thiết cần phải tuân theo
một số nguyên tắc, phương hướng mang tính định hướng sau:
1. Tiếp tục xác định BVQLNTD là nhiệm vụ chung của toàn xã
hội. Trên cơ sở đó, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể cho từng chủ
thể có liên quan để thực hiện nhiệm vụ BVQLNTD.
2. BVQLNTD phải được xem là một trong những nội dung trong
chiến lược phát triển bền vững của quốc gia. Phải ưu tiên cho công tác
BVQLNTD khi có sự xung đột với những đảm bảo phát triển kinh tế.
3. Pháp luật BVQLNTD phải luôn được xây dựng trên nguyên tắc
ưu tiên lợi thế cho NTD, tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp
của nhà sản xuất kinh doanh và các chủ thể khác có liên quan.
4. Hoạt động bảo vệ NTD phải được thực hiện thường xuyên,
17
xem trọng công tác phòng ngừa, kết hợp với việc xử lý nghiêm khắc,
triệt để mọi hành vi vi phạm pháp luật BVQLNTD.
5. Tăng cường mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về
bảo vệ quyền lợi NTD; Tăng cường hợp tác đào tạo nguồn nhân lực,

khuyến khích nghiên cứu, áp dụng chuyển giao các thành tựu khoa học
và công nghệ về bảo vệ NTD.
6. Nâng cao khả năng tự bảo vệ của NTD thông qua hoạt động
tuyên truyền, tư vấn, phổ biến pháp luật bảo vệ NTD, hỗ trợ, giáo dục
kiến thức tiêu dùng cho NTD. Và đặc biệt nên đưa giáo dục về tiêu
dùng vào các chương trình giáo dục ở các trường học.
7. Tiến hành xã hội hóa hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD, khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia
đình, cá nhân tham gia hoạt động BVQLNTD.
8. Phải ưu tiên đầu tư cho hoạt động BVQLNTD, coi đầu tư cho
công tác bảo vệ NTD là đầu tư phát triển. Cần huy động mọi nguồn lực
về tài chính, chất xám của toàn xã hội và phải có một khoản chi riêng
cho sự nghiệp BVQLNTD trong ngân sách Nhà nước hàng năm.
9. Phát triển mạng lưới bảo vệ NTD rộng khắp từ trung ương đến
địa phương, mà đặc biệt chú trọng phát triển ở nông thôn, vùng sâu
vùng xa. Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính, đội ngũ các bộ
thực hiện công tác BVQLNTD theo hướng chính quy hiện đại, tăng
ngân sách hợp lý cho sự nghiệp bảo vệ NTD.
10. Hình thành cơ chế giám sát xã hội đối với chủ thể sản xuất,
kinh doanh kể cả cơ quan quản lý nhà nước từ phía NTD, các tổ chức
bảo vệ quyền lợi NTD mà đặc biệt là các cơ quan thông tin đại chúng.
11. Cần tập trung đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ, đạo đức
của cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
BVQLNTD, tận dụng sự hỗ trợ vốn, kinh nghiệm của các tổ chức chính
phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước.
18
12. Tăng cường năng lực hoạt động, căng cường quyền tham gia
giám sát cho các tổ chức BVQLNTD. Nhà nước cần có sự đầu tư, hỗ trợ
kinh phí cho các tổ chức BVQLNTD nhằm phục vụ công tác bảo vệ
quyền lợi NTD. Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ, phối hợp với các tổ chức

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
13. Tăng cường công tác điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ NTD, áp dụng nghiêm các quy định trong Bộ
luật hình sự về các loại tội phạm liên quan đến công tác BVQLNTD.
Tăng cường năng lực cho hệ thống Tòa án nhân dân các cấp trong việc
giải quyết các vụ kiện BVQLNTD.
14. Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt
động BVQLNTD để hoàn thiện, hệ thống lại, loại bỏ những quy định
mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu tính khả thi; Cụ thể hóa các quy định
mang tính định hướng, chung chung; hoàn thiện những vấn đề khiếm
khuyết trên cơ sở học tập, tham khảo kinh nghiệm của thế giới.
15. Xử lý nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ cũng như những vi phạm của các cá nhân, tổ chức trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ thực thi pháp luật về BVQLNTD.
16. Cần xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về
BVQLNTD từ Trung ương đến địa phương, trong đó chú trọng vấn đề
hình thành đơn vị chuyên trách, bố trí nhân sự có chuyên môn, đạo đức
và kinh phí hợp lý để các bộ phận thực hiện tốt các nhiệm vụ
BVQLNTD theo quy định của pháp luật.
4.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu
dùng
Thứ nhất, xác định lại đối tượng bảo vệ của pháp luật
BVQLNTD, theo đó NTD chỉ là những cá nhân mua sử dụng hàng hóa,
19
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt mà không bao gồm tổ chức
và gia đình.
Thứ hai, cần xác định tư cách khởi kiện bao gồm cả nạn nhân mà
không đồng thời là người mua hàng hóa. Người sử dụng hàng hóa
không do mình mua nhưng một cách hợp pháp và bị thiệt hại đến tài

sản, sức khỏe, tính mạng, vẫn có quyền khởi kiện nhà kinh doanh đòi
BTTH với tư cách là NTD.
Thứ ba, quy định cụ thể khái niệm “hàng hóa” và “dịch vụ”
trong Luật Bảo vệ quyền lợi NTD để làm cơ sở xác định phạm vi bảo
hộ, phạm vi điều chỉnh của pháp luật BVQLNTD.
Thứ tư, bổ sung một số quy định liên quan đến quyền của NTD
như bổ sung quyền được thỏa mãn nhu cầu cơ bản; Làm rõ cơ chế pháp
lý về quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng của
NTD.
Thứ năm, cụ thể hóa nghĩa vụ bảo hành hàng hóa, dịch vụ của
nhà sản xuất kinh doanh. Theo đó, bảo hành là nghĩa vụ đương nhiên
mà không cần phải có thỏa thuận. Bởi lẽ, bảo hành là biện pháp khắc
phục những lỗi hỏng hóc, sự cố về kỹ thuật của hàng hóa do lỗi của nhà
sản xuất trong quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển Đây là trách
nhiệm, nghĩa vụ đương nhiên của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ và
đó cũng là một nguyên tắc thông thường trong luật dân sự mà nhiều
quốc gia trên thế giới đều ghi nhận.
Thứ sáu, cần quy định cụ thể về chế định trách nhiệm sản phẩm:
(i) Cần giới hạn thêm phạm vi miễn trừ trách nhiệm BTTH do hàng hóa
có khuyết tật gây ra của thương nhân để đảm bảo công bằng cho họ
như trong trường hợp: khuyết tật hàng hóa là do phải tuân thủ các quy
định bắt buộc của pháp luật; sản phẩm không dùng để bán hoặc để phân
phối dưới các hình thức khác, nhưng bằng một cách trái pháp luật NTD
có được và sử dụng; NTD sử dụng hàng hóa hết hạn sử dụng (ii) Cần
20
xác định thương nhân nào nhiều trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra trong trường hợp hàng hóa qua nhiều công đoạn sản
xuất bởi các thương nhân khác nhau; (iii) Cần quy định chủ thể có trách
nhiệm tìm ra khuyết tật của hàng hóa là nguyên nhân gây thiệt hại, bởi
lẽ NTD không đủ khả năng để chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa

khuyết tật của hàng hóa và thiệt hại, điều này đồng nghĩa với việc
không xác định được chủ thể chịu trách nhiệm BTTH cho NTD.
Thứ bẩy, quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước khi kiểm soát điều kiện giao dịch chung, hợp đồng theo mẫu.
Theo đó, trong trường hợp hợp đồng mẫu, ĐKGDC đã được chấp nhận
đăng ký bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vẫn còn tồn tại
những điều khoản bất công, trái với quy định của pháp luật về
BVQLNTD và gây thiệt hại cho NTD thì cơ quan quản lý nhà nước đã
thẩm định, chấp nhận hợp đồng theo mẫu, ĐKGDC đó phải chịu trách
nhiệm. Ngoài ra, cần quy định tiêu chí cụ thể của loại hàng hóa, dịch vụ
phải đăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC và khi đáp ứng các điều kiện, tiêu
chí đã nêu thì thương nhân kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó phải
đăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC theo quy định.
Thứ tám, hỗ trợ, tạo điều thuận lợi hơn cho các tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng. Nên công nhận tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD là một
tổ chức xã hội đặc thù, trên cơ sở đó tổ chức BVQLNTD mới được cấp
kinh phí để có thể thực thi tốt chức trách của mình. Ngoài ra, đối với
tiền BTTH trong vụ án dân sự về BVQLNTD do tổ chức BVQLNTD
khởi kiện vì lợi ích công cộng, cần có quy định trích để lập quỹ, phục
vụ hoạt động của tổ chức BVQLNTD.
Thứ chín, hiện nay, các cơ quan quản lý nhà nước về BVQLNTD
gặp rất nhiều khó khăn về nhân sự, tài chính, thời gian vừa phục vụ
cho công việc chuyên trách lẫn kiêm nhiệm. Cần quy định minh thị chế
độ chuyên trách đối với cơ quan quản lý nhà nước về BVQLNTD để cơ
21
quan này đủ “sức” và “tầm” để thực hiện công tác BVQLNTD ở nước
ta hiện nay.
Thứ mười, nâng cao mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hiện nay,
mức xử phạt vi phạm hành chính cũng như thẩm quyền xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực BVQLNTD là quá thấp không đủ sức răn đe,
ngăn chặn hành vi vi phạm. Cần nâng mức phạt tiền cũng như thẩm
quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVQLNTD. Để mức xử phạt vi phạm hành chính phù hợp, không bị
“lạc hậu” so với sự phát triển kinh tế trong thời gian dài, nên quy định
cách thức để tính tiền phạt dựa trên khoản lợi bất chính mà chủ thể vi
phạm có được hoặc có thể thu được từ hành vi vi phạm.
Mười một, hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp của
người tiêu dùng. Luật BVQLNTD đề cập đến thủ tục rút gọn, hay còn
được gọi là thủ tục đơn giản. Theo khoa học pháp lý, nếu xét xử theo
thủ tục đơn giản thì vụ án chỉ do một thẩm phán xét xử; bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay. Tuy nhiên, hiện nay pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành lại chưa thừa nhận thủ tục này. Vì vậy, tư
tưởng về “thủ tục đơn giản” để giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan
hệ tiêu dùng vẫn chưa có cơ hội trở thành hiện thực. Thiết nghĩ, đây
cũng là vấn đề được sửa đổi, bổ sung trong pháp luật. Ngoài ra, không
nên phân biệt giữa NTD là cá nhân và NTD là tổ chức, gia đình khi thực
hiện quyền NTD của mình. Quy định này không thể hiện một học thuyết
pháp lý minh bạch và tiến bộ và không thể hiện bản chất “gốc” của
quan hệ tiêu dùng. Vì vậy, kiến nghị cần sửa đổi.
KẾT LUẬN
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới là một lĩnh vực
non trẻ so với lịch sử phát triển lâu đời của nền kinh tế thị trường. NTD
là khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam và trong cả khoa học pháp lý. Vấn
22
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ”, Tạp chí Nhà nước và Phápluật số 11 năm 2011, tr. 55-593. Nguyễn Thị Thư, “ Đặc điểm của quan hệ tiêu dùng và pháp luậtbảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luậtsố 10 năm 2012, tr. 86-90 MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tàiNgười tiêu dùng là toàn bộ tất cả chúng ta, với tư cách là con người chúngta có quyền được bảo vệ tính mạng con người, sức khỏe thể chất, gia tài Hơn nữa, NTDđóng vai trò rất quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế tài chính mỗi quốcgia, thế nhưng trong mối quan hệ với tổ chức triển khai, cá thể sản xuất, kinhdoanh thì người tiêu dùng luôn ở vị thế yếu hơn so với nhà phân phối, kinh doanh thương mại và luôn có rủi ro tiềm ẩn gánh chịu rủi ro đáng tiếc, thiệt hại trong quan hệtiêu dùng mẫu sản phẩm, dịch vụ. Hiện nay cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thị trường, quyềnlợi của NTD ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng. Vì nhu yếu doanh thu, đạo đức kinh doanh thương mại suy đồi, không ít nhà phân phối đã lạm dụng ưu thếcủa mình để khai thác, bóc lột, lừa dối người tiêu dùng bằng rất nhiềuhình thức : loại sản phẩm không đúng chất lượng, không đủ số lượng, quảngcáo gian dối, và hơn thế nữa, tính mạng con người, sức khỏe thể chất NTD đứng trước sựđe dọa bởi thực phẩm ô nhiễm, loại sản phẩm không bảo đảm an toàn. Mặc dù Luật Bảo vệ quyền lợi NTD được trải qua và có hiệulực từ ngày 1/7/2011, nhưng cho đến nay quyền lợi của NTD vẫn đangtiếp tục bị vi phạm trầm trọng. Luật BVQLNTD đã trao cho NTD ViệtNam nhiều “ độc quyền ” hơn so với những pháp luật của Pháp lệnhBVQLNTD 1999 với sự bổ trợ của nhiều pháp luật quan trọng nhưtrách nhiệm loại sản phẩm, điều kiện kèm theo thanh toán giao dịch chung, 1 số ít ngoại lệ khigiải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân Tuy nhiên, vì nhiều nguyên do khác nhau, Luật BVQLNTD năm 2010 vẫn chưa phải là một loại sản phẩm “ tuyệt vời ”, là một công cụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi ích hợp pháp của NTD hiệnnay. Chính thế cho nên, việc điều tra và nghiên cứu những yếu tố lý luận về pháp luậtBVQLNTD, cũng như thực tiễn thực thi, vận dụng pháp luật BVQLNTDlà rất là thiết yếu, trên cơ sở đó đưa ra khuynh hướng, giải pháp cụ thểnhằm liên tục hoàn thành xong pháp luật BVQLNTD trong quy trình tiến độ hiện naycó ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. 2. Mục đích và trách nhiệm điều tra và nghiên cứu luận án – Mục đích của luận án : Làm sáng tỏ yếu tố lý luận về NTD, quyền cơ bản của NTD, nghĩa vụ và trách nhiệm của những chủ thể khác, quan hệ tiêudùng và pháp luật BVQLNTD ; Đánh giá tình hình pháp luậtBVQLNTD cũng như việc thực thi pháp luật BVQLNTD sau một nămthực hiện Luật BVQLNTD trên cơ sở đó yêu cầu những giải pháp nhằmhoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. – Nhiệm vụ nghiên cứu và điều tra của luận án : Làm rõ cơ sở lý luận NTD, quan hệ tiêu dùng, những quyền của NTD, nghĩa vụ và trách nhiệm của những chủ thể kháctrong mạng lưới hệ thống pháp luật BVQLNTD cũng như vai trò, vị trí của NTD, pháp luật BVQLNTD trong mạng lưới hệ thống pháp luật Nước Ta ; Nghiên cứuso sánh sự ghi nhận quyền và bảo vệ quyền lợi NTD ở một số ít quốc giatrên quốc tế, những yếu tố pháp lý phát sinh và rút ra kinh nghiệm tay nghề choViệt Nam. Phân tích tình hình pháp luật, tình hình vận dụng pháp luậtBVQLNTD ở Nước Ta, qua đó nêu rõ những chưa ổn, hạn chế vànguyên nhân của chúng ; Phân tích, nhìn nhận khuynh hướng hoạt động củapháp luật BVQLNTD lúc bấy giờ trên quốc tế, đưa ra khuynh hướng cho việchoàn thiện pháp luật BVQLNTD của Việt trong quy trình tiến độ hội nhập kinhtế quốc tế. Nghiên cứu và đề xuất kiến nghị phương hướng, những giải pháp cụthể nhằm mục đích triển khai xong pháp luật BVQLNTD ở phương diện thực thi cácquyền của NTD có hiệu suất cao khi tham gia vào những quan hệ tiêu dùng vớicác đơn vị sản xuất kinh doanh thương mại. 3. Đối tượng và khoanh vùng phạm vi điều tra và nghiên cứu – Đối tượng điều tra và nghiên cứu của luận án : Là những nội dung pháp luậtliên quan đến yếu tố bảo vệ quyền lợi NTD ; thực tiễn kiến thiết xây dựng và thựcthi pháp luật BVQLNTD ở Nước Ta ; kinh nghiệm tay nghề quốc tế trong xâydựng pháp luật BVQLNTD. Việc so sánh, so sánh quy phạm đượcgiới hạn ở những nước có nền kinh tế thị trường tăng trưởng như Mỹ, Canada, EU. Đối với những nước đang tăng trưởng, việc so sánh chú trọngtới pháp luật những nước nằm trong khu vực hay những nước có sự tươngđồng với Nước Ta về kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống. – Phạm vi điều tra và nghiên cứu : Pháp luật BVQLNTD là một nghành rấtrộng lớn, gồm có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nhiềulĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, trong khoanh vùng phạm vi một luận án không thểphân tích hết những yếu tố đó. Như mục tiêu và trách nhiệm điều tra và nghiên cứu đãtrình bày ở trên, luận án đặt trọng tâm nghiên cứu và điều tra những yếu tố mangtính lý luận, nhìn nhận tính tương thích, thống nhất, hài hòa và hợp lý và khả thi củaLuật BVQLNTD và những văn bản hướng dẫn sau một năm thực thi. Ngoài ra, luận án tập trung chuyên sâu điều tra và nghiên cứu một số ít pháp luật mang tính đặcthù của pháp luật BVQLNTD ở Nước Ta và kinh nghiệm tay nghề quốc tế nhằmđưa ra những giải pháp hoàn thành xong pháp luật BVQLNTD, góp thêm phần giảiquyết triệt để những điểm khuyết trong lý luận cũng như trong thực tiễnáp dụng của pháp luật BVQLNTD của Nước Ta. Những nội dung liênquan đến tình hình pháp luật và thực thi pháp luật, luận án sẽ nghiêncứu nhưng số lượng giới hạn trong khoanh vùng phạm vi chủ quyền lãnh thổ Nước Ta. 4. Những điểm mới của luận ánThứ nhất : Luận án điều tra và nghiên cứu một cách có mạng lưới hệ thống khái niệm vềNTD, quan hệ tiêu dùng, pháp luật BVQLNTD ; Phân tích vị trí vai tròcủa NTD cũng như sự thiết yếu phải bảo vệ NTD ; Làm rõ thực chất củaquan hệ tiêu dùng, vị trí và vai trò của pháp luật BVQLNTD trong hệthống pháp luật, xử lý một cách thỏa đáng những yếu tố mang tínhlý luận của pháp luật BVQLNTD, đồng thời xác lập được những nộidung không hề thiếu được coi là nội hàm mà nghành pháp luật nàybuộc phải có. Thứ hai : Luận án nghiên cứu và điều tra, nghiên cứu và phân tích, nhìn nhận một cách có hệthống và tổng lực tình hình pháp luật BVQLNTD của Nước Ta. Trêncơ sở đó chỉ ra sự khiếm khuyết, bất hài hòa và hợp lý cần sửa đổi, bổ trợ củapháp luật BVQLNTD sao cho tương thích với yên cầu khách quan của nềnkinh tế thị trường cũng như tương thích với điều kiện kèm theo văn hóa truyền thống, xã hội vàyêu cầu thiết kế xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nước Ta trong thời kỳ hộinhập quốc tế. Thứ ba : Luận giải và yêu cầu đơn cử, tổng lực những giải pháp nhằmđáp ứng được nhu yếu bảo vệ hữu hiệu NTD khi quyền lợi của họ bịxâm phạm khá nghiêm trọng như trong toàn cảnh lúc bấy giờ ; Đưa ra địnhhướng, những đề xuất kiến nghị nhằm mục đích hoàn thành xong pháp luật bảo vệ quyền lợi NTDở Việt nam lúc bấy giờ. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận ánLuận án là khu công trình điều tra và nghiên cứu một cách mạng lưới hệ thống, khoa học vàkhá tổng lực những yếu tố mang tính lý luận và thực tiễn làm cơ sởxây dựng, hoàn thành xong pháp luật BVQLNTD. Là sự góp phần không nhỏtrong việc triển khai xong pháp luật BVQLNTD, bảo vệ trật tự và côngbằng xã hội. Luận án cũng hoàn toàn có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụgiảng dạy, học tập và nghiên cứu và điều tra khoa học trong nghành nghề dịch vụ pháp luậtBVQLNTD nói chung và luật đạo BVQLNTD nói riêng. 6. Bố cục của luận ánNgoài phần khởi đầu, Kết luận, hạng mục tài liệu tìm hiểu thêm và phụlục, luận án gồm 4 chương : CHƯƠNG 1T ỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞLÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu1. 1.1. Tình hình điều tra và nghiên cứu trên thế giớiBVQLNTD chỉ thực sự được chăm sóc vào những năm 60 của thế kỷXX, khi thực trạng xâm phạm quyền lợi NTD trở nên nhức nhối. Theo đó, hàng loạt những khu công trình sinh ra như : W. David Slawson với “ StandardForm Contracts and Democratic Control of Lawmaking Power ”, Vol. 84 Harvard Law Review 529, 529 ( 1971 ) ở Mỹ ; “ NotarielleVerbrauchervertraege ” của Britta Carmen Deimel, Nxb. Dr. Kovac, 2003. Bảo vệ quyền lợi NTD đã trở thành xu thế toàn thế giới, nhanh chónglan tỏa đến toàn bộ những vương quốc trên quốc tế. Một số điều tra và nghiên cứu tiêu biểunhư : Gralf-Peter Calliess với “ Coherence and Consistency in EuropeanConsumer Contract Law : a Progress Report ”, Frankfurt am Main, 2003 ; Sir John Vickers với “ Contracts and European consumer law : anOFT perspective ”, Oxford 2005 ; Michael G. Faure và Hanneke A.Luthvới “ Behavioural Economics in Unfair Contract Terms Cautions andConsiderations ”, The Author ( s ) 2011 ; 1.1.2. Tình hình nghiên cứu và điều tra ở Việt NamCác khu công trình điều tra và nghiên cứu rất phong phú như sách tìm hiểu thêm, bàibáo, giáo trình, báo cáo giải trình khảo sát thực tiễn và theo những nhóm yếu tố sau : – Nhóm khu công trình nghiên cứu và điều tra từ góc nhìn luật cạnh tranh đối đầu như : Nguyễn Như Phát “ Đối tượng kiểm soát và điều chỉnh của pháp luật chống cạnhtranh không lành mạnh ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9 năm2000 ; Ngô Vĩnh Bạch Dương, “ Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trongpháp luật cạnh tranh đối đầu ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2000. – Nhóm điều tra và nghiên cứu lý luận về pháp luật BVQLNTD : Đề tài cấpbộ “ Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Namtrong toàn cảnh hội nhập kinh tế tài chính quốc tế ”, do TS. Đinh Thị Mỹ Loan chủnhiệm năm 2006 ; “ Giáo trình luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ” của Trường Đại học Luật TP. Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, 2012 … – Nhóm những khu công trình điều tra và nghiên cứu những thiết chế BVQLNTD như : Đinh Ngọc Vượng “ Quyền của người tiêu dùng và nghĩa vụ và trách nhiệm của cáccơ quan nhà nước ”, báo cáo giải trình tại Hội thảo quốc tế tháng 2/2008 ; LêHồng Hạnh, “ Thực trạng pháp luật của Nước Ta về những thiết chế bảovệ quyền lợi người tiêu dùng ”, báo cáo giải trình tại hội thảo chiến lược Bảo vệ NTD – kinhnghiệm từ pháp luật của Đức và liên minh Châu Âu, tháng 7/2010 … – Nhóm khu công trình điều tra và nghiên cứu về kinh nghiệm tay nghề quốc tế như : Chuyên đề “ Cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng : thực tiễn Việt Namvà kinh nghiệm tay nghề quốc tế ”, tháng 8/2007 của Viện khoa học pháp lý ; Tàiliệu Hội thảo “ Bảo vệ người tiêu dùng – kinh nghiệm tay nghề từ pháp luật củaĐức và liên minh châu âu với Việt nam ”, tháng 7/2010. 1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứuĐến nay, chưa có khu công trình khoa học ở Lever tiến sỹ điều tra và nghiên cứu, nhìn nhận một cách tổng lực và có mạng lưới hệ thống yếu tố lý luận của pháp luậtBVQLNTD ; tình hình pháp luật BVQLNTD sau một năm thực hiệnLuật BVQLNTD, yêu cầu những giải pháp nhằm mục đích hoàn thành xong pháp luậtbảo vệ quyền lợi NTD. Chính vì thế, luận án không trùng lặp với bất kỳcông trình điều tra và nghiên cứu nào đã thực thi trước đây, việc nghiên cứu và điều tra đề tàiluận án có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 1.2. Cơ sở kim chỉ nan và chiêu thức nghiên cứu1. 2.1. Cơ sở lý thuyếtQuan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ; Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chủ trương bảo vệ con người, BVQLNTD trong tiến trình lúc bấy giờ. Lý thuyết về những quyền cơ bảncủa NTD với tư cách là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tài chính. Lýthuyết về bảo vệ kẻ yếu trong mối đối sánh tương quan với kẻ mạnh nhằm mục đích đảmbảo sự công minh xã hội. Đây là những triết lý có tác động ảnh hưởng rất lớntới việc kiến thiết xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật BVQLNTD nói riêngcủa những vương quốc, kể cả Nước Ta trong quá trình lúc bấy giờ. 1.2.2. Phương pháp nghiên cứuLuận án được nghiên cứu và điều tra trên cơ sở phương pháp luận là chủnghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử dân tộc. Theo đó, luận ánsử dụng nhiều chiêu thức điều tra và nghiên cứu đơn cử như : Phương pháp hệthống, nghiên cứu và phân tích và tổng hợp, luật học so sánh, khảo sát, phương pháplịch sử đơn cử … Để hoàn thành xong mục tiêu điều tra và nghiên cứu thì có sự kết hợpgiữa những chiêu thức trong từng phần của luận án, chiêu thức phântích và tổng hợp được sử dụng nhiều nhất trong luận án. Đối với mỗimục sẽ được sử dụng chiêu thức nghiên cứu và điều tra chủ yếu khác nhau. CHƯƠNG 2NH ỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀNLỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG2. 1. Quan niệm về người tiêu dùng2. 1.1. Khái niệm người tiêu dùngTrên cơ sở điều tra và nghiên cứu những ý niệm về NTD, luận án đưa rakhái niệm về NTD như sau : “ Người tiêu dùng là người mua, sử dụnghàng hóa, dịch vụ cho mục tiêu tiêu dùng, hoạt động và sinh hoạt cá thể ”. Theo đó, NTD có những đặc thù sau : ( i ) Về chủ thể, NTD phải là cá thể hay nóicách khác là tự nhiên nhân ; ( ii ) Sử dụng sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ cho mụcđích tiêu dùng, hoạt động và sinh hoạt cá thể ; ( iii ) Quan hệ tiêu dùng được xác lậpthông qua hợp đồng mua và bán, đáp ứng dịch vụ hoặc phát sinh trên cơsở sử dụng sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ. 2.1.2. Vị trí, vai trò của người tiêu dùngNTD là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế tài chính, NTD quyết địnhhàng hóa, dịch vụ mà tổ chức triển khai, cá thể sẽ sản xuất, kinh doanh thương mại và gópphần quyết định hành động giá thành, số lượng, chất lượng hàng hoá. Ngoài ra, NTDlà tổng thể tất cả chúng ta, là những con người – TT của những mối quantâm về sự tăng trưởng tổng lực và vĩnh viễn, do đó NTD có quyền đượchưởng một đời sống niềm hạnh phúc và lành mạnh, có quyền được hưởngcác mẫu sản phẩm bảo đảm an toàn, tương thích với năng lực và nhu yếu của mình. 2.1.3. Quan hệ tiêu dùngQuan hệ tiêu dùng là quan hệ dân sự được thực thi trên cơ sởhợp đồng mua và bán, theo đó, NTD mua và / hoặc sử dụng sản phẩm & hàng hóa, dịchvụ đó không vì mục tiêu kinh doanh thương mại. Quan hệ tiêu dùng có những đặcđiểm sau : ( i ) Có tối thiểu một bên là NTD ; ( ii ) Sử dụng sản phẩm & hàng hóa, dịch vụcho mục tiêu tiêu dùng cá thể ; ( iii ) Là một quan hệ bất bình đẳng vàNTD khó có quyền tự do khế ước ; ( iv ) NTD luôn bị chèn ép và gánhchịu rủi ro đáng tiếc trong hợp đồng mẫu, điều kiện kèm theo thương mại chung. Chính vìcác đặc thù này mà những lao lý của dân luật truyền thống cuội nguồn không thểvà không nên vận dụng cho quan hệ tiêu dùng. 2.2. Khái niệm, đặc thù của pháp luật bảo vệ quyền lợingười tiêu dùng2. 2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngSau khi nghiên cứu và điều tra, luận án đưa ra khái niệm pháp luậtBVQLNTD như sau : “ Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là hệ thốngcác nguyên tắc và những quy phạm pháp luật do nhà nước phát hành hoặcthừa nhận nhằm mục đích kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội trong hoạt động giải trí bảo vệquyền lợi người tiêu dùng ”. 2.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngThứ nhất, pháp luật BVQLNTD có “ biên giới ” với rất nhiềungành luật khác nhau. Hệ thống quy phạm pháp luật BVQLNTD tồn tạiở nhiều ngành luật khác nhau gồm có luật dân sự, luật hành chính vàluật hình sự. Và nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhautrong nghành nghề dịch vụ cạnh tranh đối đầu, quảng cáo, giám sát chất lượng mẫu sản phẩm, antoàn vệ sinh thực phẩmThứ hai, pháp luật BVQLNTD là một nghành luật công đượcdùng để kiểm soát và điều chỉnh quan hệ tư giữa thương nhân và NTD. Pháp luậtBVQLNTD bộc lộ sự can thiệp của nhà nước vào quan hệ pháp luậtdân sự nhằm mục đích bảo vệ NTD được xem là “ kẻ yếu ” trong mối quan hệ vớithương nhân khi triển khai những thanh toán giao dịch dân sự. Thứ ba, pháp luật BVQLNTD có rất nhiều lao lý đặc biệt quan trọng vàngoại lệ so với dân luật truyền thống cuội nguồn. Đó chính là những ngoại lệ vềmiễn tạm ứng án phí, xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc hòn đảo nghĩa vụchứng minh cho NTD … 2.2.3. Vị trí của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngtrong mạng lưới hệ thống pháp luậtTrong mạng lưới hệ thống pháp luật BVQLNTD thì Luật BVQLNTD có vaitrò quan trọng đặc biệt quan trọng, giữ vị trí trọng tâm trong mạng lưới hệ thống pháp luậtBVQLNTD. Luật BVQLNTD pháp luật những yếu tố cơ bản nhất vàmột số chế định đặc trưng của pháp luật bảo vệ NTD. Những quy địnhkhác tương quan đến bảo vệ NTD mà không được lao lý trong LuậtBảo vệ NTD sẽ được dẫn chiếu, trải qua những pháp luật của pháp luậtvề cạnh tranh đối đầu, quảng cáo, chất lượng loại sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm, bồithường thiệt hại ngoài hợp đồng đây là xu thế làm luật của đa sốcác vương quốc trên quốc tế. 2.3. Mô hình pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng2. 3.1. Một số quy mô pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêudùng trên thế giớiQua điều tra và nghiên cứu quy mô pháp luật của một số ít vương quốc phát triểnnhư : Hoa Kỳ, nước Australia, Vương quốc Anh hay những nước trong khu vựcnhư Xứ sở nụ cười Thái Lan, Indonesia Từ đó, luận án rút ra 1 số ít Tóm lại là kinhnghiệm về giải pháp kiểm soát và điều chỉnh pháp luật, hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm choViệt Nam như sau : ( i ) Điều chỉnh pháp luật về BVQLNTD là hiệntượng phổ cập tại những vương quốc ; ( ii ) Hệ thống pháp luật BVQLNTD ( trực tiếp và gián tiếp ) là khá phong phú, được lao lý tại nhiều văn bảnpháp luật khác nhau. Trong đó, luật đạo riêng về BVQLNTD được coilà TT của chế định pháp luật ; ( iii ) Pháp luật mang đặc thù “ canthiệp ” vào quan hệ tư, ưu tiên BVQLNTD. 2.3.2. Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ởViệt NamQuan hệ tiêu dùng xuất hiện ở hầu hết những nghành nghề dịch vụ của đời sốngkinh tế, xã hội, đồng nghĩa tương quan với sự Open của NTD trong tổng thể cácquan hệ này. Thế nên mạng lưới hệ thống pháp luật BVQLNTD gồm có nhiều vănbản luật tương quan đến nhiều nghành nghề dịch vụ khác nhau như Luật quảng cáo ; Luật chất lượng mẫu sản phẩm, sản phẩm & hàng hóa ; Luật đo lường và thống kê ; Luật tiêu chuẩn vàquy chuẩn kỹ thuật ; Luật bảo đảm an toàn thực phẩm ; Bộ Luật Dân sự và BộLuật Tố tụng dân sự, Luật BVQLNTD Trong đó, Luật BVQLNTD giữvị trí trọng tâm, lao lý những yếu tố cơ bản nhất và một số ít chế địnhđặc thù, những yếu tố khác không được lao lý trong Luật Bảo vệNTD sẽ được dẫn chiếu, trải qua những lao lý của pháp luật về cạnhtranh, quảng cáo, chất lượng loại sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm … 2.4. Cấu trúc nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêudùng2. 4.1. Quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của người tiêu dùngHiện nay Liên Hiệp quốc và nhiều nước trên quốc tế đã côngnhận NTD có tám quyền sau : ( i ) Quyền được thỏa mãn nhu cầu những nhu cầucơ bản, đó là quyền được tiếp cận với những hàng hoá, dịch vụ thiếtyếu ; ( ii ) Quyền được bảo đảm an toàn, được có những hàng hoá, dịch vụ khônggây nguy hại cho sức khoẻ, tính mạng con người hay tổn hại đến niềm tin ; ( iii ) Quyền được cung ứng những thông tin trung thực, đúng mực và đầy đủvề hàng hoá, dịch vụ ; ( iv ) Quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ phù hợpvới năng lực và nhu yếu của bản thân ; ( v ) Quyền được lắng nghe, đượcbày tỏ quan điểm so với cơ quan nhà nước và những tổ chức triển khai kinh doanh thương mại trongviệc tương quan đến quyền lợi của NTD ; ( vi ) Quyền được khiếu nại và bồithường ; ( vii ) Quyền được giáo dục và huấn luyện và đào tạo về tiêu dùng ; ( viii ) Quyềnđược có thiên nhiên và môi trường sống lành mạnh và vững chắc. 10B ên cạnh những quyền được ghi nhận, NTD có nghĩa vụ và trách nhiệm pháthiện, phê bình và đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật nói chungvà pháp luật BVQLNTD nói riêng ; Có ý thức hội đồng, xã hội cũngnhư hiểu biết về tiêu dùng và thiên nhiên và môi trường. 2.4.2. Trách nhiệm và nghĩa vụ và trách nhiệm của đơn vị sản xuất, cung cấphàng hóa, dịch vụQuyền lợi của NTD có được bảo vệ hay không phụ thuộc vào vàothái độ, hành vi tuân thủ pháp luật của nhà kinh doanh. Họ là chủ thể trực tiếpxâm hại đến quyền lợi của NTD. Vì vậy, để cho quyền lợi của NTD đượcđảm bảo, tổ chức triển khai, cá thể kinh doanh thương mại có những nghĩa vụ và trách nhiệm sau : Nghĩa vụ bảođảm chất lượng, số lượng và sự bảo đảm an toàn của sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ ; Nghĩavụ thông tin, quảng cáo đúng chuẩn và trung thực về sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ ; Nghĩa vụ Bảo hành ; Nghĩa vụ bảo vệ bảo đảm an toàn cho NTD ; Trách nhiệmbồi thường thiệt hại ; xử lý khiếu nại cho NTD ; Trách nhiệm doviệc áp đặt những điều kiện kèm theo thanh toán giao dịch chung ; Trách nhiệm loại sản phẩm. 2.4.3. Trách nhiệm từ phía Nhà nướcNhà nước là chủ thể của quyền lực tối cao công, có nghĩa vụ và trách nhiệm duy trì, bảo vệ trật tự chung xã hội, bảo vệ kẻ yếu và bảo vệ công minh xã hội. Vì vậy, để BVQLNTD cơ quan quản trị Nhà nước có nghĩa vụ và trách nhiệm kiểm tra, giám sát, giải quyết và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật BVQLNTD. Ngoài ra, đểcác cơ quan nhà nước triển khai tốt công dụng của mình, cũng cần đặt ratrách nhiệm của Nhà nước trong trường hợp không hoàn thành xong nghĩa vụcủa mình. 2.4.4. Trách nhiệm của tổ chức triển khai xã hội bảo vệ người tiêu dùngXã hội hóa hoạt động giải trí BVQLNTD là điều tất yếu trong xu thế hộinhập, tăng trưởng lúc bấy giờ, trong đó vai trò của những tổ chức triển khai xã hội, tổchức xã hội nghề nghiệp là rất quan trọng. Cần có những pháp luật “ ưuái ” hơn để những tổ chức triển khai này hoàn toàn có thể thực thi tốt, hiệu suất cao hoạt độngBVQLNTD. 112.4.5. Những giải pháp bảo vệ thực thi pháp luật bảo vệquyền lợi người tiêu dùngCó thể thấy đây là những pháp luật khá đặc trưng để thực thi phápluật BVQLNTD một cách hiệu suất cao. Theo đó gồm có : ( i ) Thu hồi hànghóa có khuyết tật : Người cung ứng sản phẩm & hàng hóa có nghĩa vụ và trách nhiệm bằng mọibiện pháp thiết yếu ngừng việc phân phối và tịch thu sản phẩm & hàng hóa có khuyếttật trên thị trường ; ( ii ) Trách nhiệm mẫu sản phẩm : Tổ chức, cá thể kinhdoanh sản phẩm & hàng hóa có nghĩa vụ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD trongtrường hợp sản phẩm & hàng hóa mình phân phối có khuyết tật kể cả khi họ không cólỗi trong việc phát sinh khuyết tật ; ( iii ) Chống hành vi thương mạikhông lành mạnh ; ( iv ) Giải quyết tranh chấp với NTD theo thủ tục đơngiản hoặc khởi kiện tập thể, hòn đảo nghĩa vụ và trách nhiệm chứng tỏ lỗi cho nhà kinhdoanh ; ( v ) Chế tài so với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD.CHƯƠNG 3TH ỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬTVỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG3. 1. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng3. 1.1. Trước khi có Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngCác pháp luật kiểm soát và điều chỉnh quan hệ tiêu dùng giữa NTD và thươngnhân chưa xem NTD là bên “ yếu thế ” hơn. Thế nên, pháp luật dân sựđược vận dụng vào quan hệ này mà chưa có những chế định đặc trưng, dẫnđến sự bất hợp lý, bất công, không hiệu suất cao trong công tác làm việc BVQLNTD. 3.1.2. Sau khi có Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngPháp luật BVQLNTD được kiến thiết xây dựng trên nguyên tắc ưu tiên lợithế cho NTD. Luật BVQLNTD đã khắc phục khiếm khuyết của phápluật BVQLNTD trước đó bằng việc bổ trợ nhiều chế định đặc thùnhư : nghĩa vụ và trách nhiệm loại sản phẩm, trấn áp hợp đồng mẫu, 1 số ít ngoại lệ12khi xử lý tranh chấp tại tòa án nhân dân Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chếnhư sau : 1. Đối tượng bảo vệ của pháp luật BVQLNTD quá rộng, ngoài cánhân thì NTD còn là tổ chức triển khai. Điều này không hài hòa và hợp lý, thiếu thuyết phụcbởi lẽ tổ chức triển khai không rơi vào thế “ kẻ yếu ” trong quan hệ tiêu dùng, không tương thích với thông lệ quốc tế. Ngoài ra đối tượng người tiêu dùng bảo vệ quárộng làm tiêu tốn lãng phí nguồn lực BVQLNTD của nhà nước ; 2. Chưa xác lập được khoanh vùng phạm vi những thanh toán giao dịch của NTD được bảohộ bởi pháp luật BVQLNTD. Khái niệm “ sản phẩm & hàng hóa ”, “ dịch vụ ” khôngcó trong Luật BVQLNTD, mà pháp luật của những luật đạo có liên quanthì không thống nhất về nội hàm, gây khó khăn vất vả trong việc thi hành phápluật BVQLNTD ; 3. Quyền được thỏa mãn nhu cầu những nhu yếu cơ bản của NTD chưađược ghi nhận ; Quyền được giáo dục về tiêu dùng không có pháp luật cụthể nên khó thực thi ; 4. Nghĩa vụ kiểm tra và thông tin vi phạm của NTD không đượccụ thể hóa, không có chính sách bảo vệ triển khai và NTD chưa có khảnăng triển khai ; 5. Thương nhân chỉ thực thi việc bh sản phẩm & hàng hóa khi có thỏathuận hoặc pháp luật pháp luật. Điều này bất công với NTD vì NTDkhông “ đủ sức ” để thỏa thuận hợp tác ; 6. Giới hạn khoanh vùng phạm vi miễn trừ nghĩa vụ và trách nhiệm BTTH do sản phẩm & hàng hóa cókhuyết tật gây ra của thương nhân chưa khá đầy đủ, cần lao lý thêm đểđảm bảo công minh, hài hòa quyền lợi cho nhóm này ; Chưa xác lập đượcthương nhân nào chịu nghĩa vụ và trách nhiệm BTTH do sản phẩm & hàng hóa có khuyết tật gâyra trong trường hợp sản phẩm & hàng hóa qua nhiều quy trình sản xuất bởi cácthương nhân khác nhau ; NTD không đủ năng lực để tìm ra khuyết tậtcủa sản phẩm & hàng hóa là nguyên do gây thiệt hại, thế cho nên không hề chứngminh mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật của sản phẩm & hàng hóa và thiệt hại. 13 Điều này đồng nghĩa tương quan với việc không xác lập được chủ thể chịu tráchnhiệm BTTH cho NTD ; 7. Hiện nay, chỉ có 9 loại sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ pháp luật tại Quyếtđịnh số 02/2012 / QĐ-TTg mới ĐK hợp đồng mẫu, ĐKGDC. Thếnhưng, vẫn còn rất nhiều loại sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, ảnh hưởngtrực tiếp đến đời sống của số đông NTD và / hoặc cũng được cung cấpbởi những nhóm độc quyền nhưng chưa được nhu yếu ĐK hợp đồngmẫu, ĐKGDC. Điều này không hài hòa và hợp lý và chưa bảo vệ được quyền lợiNTD ; Trường hợp những hợp đồng mẫu, ĐKGDC đã được chấp nhậnđăng ký bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vẫn còn tồn tạinhững pháp luật bất công, trái với lao lý của pháp luật vềBVQLNTD và gây thiệt hại cho NTD thì ai là người chịu tránh nhiệmBTTH cho NTD, thương nhân hay cơ quan quản trị nhà nước đã thẩmđịnh, đồng ý hợp đồng theo mẫu, ĐKGDC đó ? yếu tố này Luật chưaquy định ; Ngoài ra, pháp luật về hình thức của hợp đồng mẫu trongNghị định 99/2011 / NĐ-CP và Nghị định 19/2012 / NĐ-CP lao lý xửphạt vi phạm hành chính trong nghành nghề dịch vụ BVQLNTD tỏ ra xích míc, chưa bảo vệ tính thống nhất của pháp luật ; 8. Luật chưa xác lập thực chất, vị thế pháp lý và nguyên tắc tổchức hoạt động giải trí của tổ chức triển khai BVQLNTD ( do hội này không có hội viênnên khó hoàn toàn có thể vận dụng pháp luật về hội hiện hành ) ; Thiếu những quyđịnh về điều kiện kèm theo bảo vệ thực thi những quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của hội, đặcbiệt là về nguồn kinh tế tài chính. Ngoài ra, cũng cần lý giải khái niệm “ vìlợi ích công cộng ”, vì đây là điều kiện kèm theo để hội được khởi kiện vụ ánBVQLNTD ; 9. Quy định về xử lý tranh chấp của NTD theo thủ tục đơngiản tại khoản 2 Điều 41 Luật BVQLNTD không khả thi, không thểthực hiện được vì Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 vẫn chưathừa nhận thủ tục này. Ngoài ra, Luật có sự phân biệt không hài hòa và hợp lý giữa14NTD là cá thể và NTD là tổ chức triển khai, mái ấm gia đình trong hợp đồng mẫu, ĐKGDC. Theo đó, NTD là cá thể thì có quyền bảo lưu pháp luật giảiquyết tranh chấp bằng trọng tài và có quyền chọn phương pháp giải quyếttranh chấp khác, còn NTD là tổ chức triển khai, mái ấm gia đình thì không có quyền này ; 10. Trong thiết chế thực thi pháp luật về BVQLNTD của nước takhông sống sót một cơ quan chuyên trách và thống nhất. Theo đó, BộCông Thương, mà đại diện thay mặt là Cục quản trị cạnh tranh đối đầu có nghĩa vụ và trách nhiệm tổchức, thực thi kế hoạch, phối hợp những cơ quan, tổ chức triển khai có tương quan ( đa phần là những Bộ ). Điều này làm giảm tính hiệu lực hiện hành của hoạt động giải trí quản lýnhà nước trong công tác làm việc BVQLNTD, bởi lẽ đặc trưng của hoạt động giải trí quảnlý nhà nước phải là mệnh lệnh, chỉ huy, phục tùng. Ngoài ra, tuy cónhiều cơ quan có trách nhiệm tương quan công tác làm việc BVQLNTD nhưng cơ chếphối hợp không rõ ràng ; 11. Chế tài hành chính so với hành vi vi phạm pháp luậtBVQLNTD chưa đủ sức răn đe, giáo dục và hạn chế hành vi vi phạm. Mứcphạt tiền so với những hành vi vi phạm là quá thấp so với sự tăng trưởng kinhtế lúc bấy giờ. Ngoài ra, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trao cho tổchức, cá thể có thẩm quyền còn rất thấp, gây khó khăn vất vả trong công tácthực thi pháp luật BVQLNTD của những chủ thể này. Những chưa ổn, hạn chế nêu trên đã được luận án nghiên cứu và phân tích mộtcách chi tiết cụ thể và chỉ rõ nguyên do của những điểm yếu kém đó3. 2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêudùngSau hơn một năm thực thi Luật BVQLNTD, thực trạng xâm phạmquyền lợi NTD vẫn liên tục ngày càng tăng trong hầu hết những nghành của đờisống như : phân bón giả ; Ban quản trị tòa nhà tùy tiện tăng phí dịch vụ ; những phòng khám tư nhân quảng cáo rầm rộ nhưng nhiều bệnh nhân bị “ chém ”, tiền mất tật mang ; bán hàng lừa đảo ; pha tạp chất vào xăng. Trong đó đáng báo động là nghành bảo đảm an toàn thực phẩm : như bữa ăn tại15trường mẫu giáo quốc tế không bảo vệ ; sữa nhiễm melamine, thịt lợncó chất tạo nạc bị cấm, mỹ phẩm giả những tên thương hiệu nổi tiếng, sản xuấtgiá ăn bằng hóa chất, trái cây, rau, củ thì bị tẩm quá nhiều chất độc, cádính chất cấm Trifluralin, ruốc, mắm tép được làm từ thịt thối … Thực tiễn thi hành pháp luật BVQLNTD biểu lộ qua thái độ, ýthức của những chủ thể thực thi pháp luật BVQLNTD như sau : ( i ) Ý thứcpháp luật của NTD rất kém, đại bộ phận NTD thiếu thông tin về phápluật, hiểu biết về quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của mình hoặc tỏ ra lạnh nhạt với phápluật BVQLNTD. Hầu hết thiếu tự tin trong tiếp cận công lý ; ( ii ) Tổ chứcbảo vệ người tiêu dùng hoạt động giải trí kém hiệu suất cao do thiếu nhân lực và tàichính. Các tổ chức triển khai ở những địa phương khác nhau chưa có sự phối hợphoạt động và chưa phải là chỗ dựa cho NTD ; ( iii ) Việc vi phạm phápluật BVQLNTD của những tổ chức triển khai, cá thể kinh doanh thương mại ngày càng tăng, đặc biệttrong nghành vệ sinh bảo đảm an toàn thực phẩm. Rất nhiều thương nhân khôngđăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC và lạm dụng vị trí thống lĩnh và độcquyền chèn ép NTD ; ( iv ) Việc thực thi pháp luật BVQLNTD của những cơquan Nhà nước yếu kém, lúng túng, thụ động và chưa thực sự đủ tầmđiều chỉnh và quản trị những yếu tố phát sinh ; Chưa có chính sách chỉ huy vàphối hợp hiệu suất cao, ngoài những, hầu hết những cơ quan quản trị nhà nước vềBVQLNTD đều gặp khó khăn vất vả về nguồn nhân lực vì phải kiêm nhiệm. Các yếu tố nói trên được luận án nghiên cứu và phân tích, nhìn nhận một cáchkhoa học, công phu, chi tiết cụ thể và chỉ rõ nguyên do của những sống sót đó. CHƯƠNG 4HO ÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢINGƯỜI TIÊU DÙNG4. 1. Nhu cầu triển khai xong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêudùngTừ tác dụng nghiên cứu và điều tra ở chương 3 của luận án cho thấy, pháp luật16BVQLNTD ở Nước Ta lúc bấy giờ vẫn còn những hạn chế, chưa ổn đòihỏi phải liên tục điều tra và nghiên cứu hoàn thành xong. Việc hoàn thành xong pháp luật xuấtphát, bắt nguồn từ những nhu yếu sau : Nhu cầu bảo vệ quyền lợi NTD ; Nhu cầu bảo vệ triển khai quyền con người ; Nhu cầu kiểm soát và điều chỉnh hànhvi của nhà phân phối, kinh doanh thương mại ; Nhu cầu nâng cao hiệu lực thực thi hiện hành quản trị nhànước, quản trị xã hội ; Nhu cầu kiến thiết xây dựng một xã hội và nền kinh tế tài chính vănminh, văn minh ; Nhu cầu thiết kế xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân, vì dân ; Nhu cầu hội nhập quốc tế và thực thi điều ước quốc tế. Luận án đã trình diễn, nghiên cứu và phân tích và làm sáng tỏ những nhu yếu nóitrên để nhận thấy sự thiết yếu phải liên tục triển khai xong pháp luậtBVQLNTD ở Nước Ta lúc bấy giờ. Hoàn thiện pháp luật BVQLNTD xuất phát từ những yên cầu, nhucầu đã nêu, tuy nhiên pháp luật BVQLNTD sau khi được hoàn thiệnphải bảo vệ những chuẩn mực, những giá trị nhất định tương thích vớiđiều kiện kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, xã hội của Nước Ta lúc bấy giờ. 4.2. Định hướng triển khai xong pháp luật bảo vệ quyền lợi ngườitiêu dùngHoàn thiện pháp luật BVQLNTD nhất thiết cần phải tuân theomột số nguyên tắc, phương hướng mang tính xu thế sau : 1. Tiếp tục xác lập BVQLNTD là trách nhiệm chung của toàn xãhội. Trên cơ sở đó, lao lý nghĩa vụ và trách nhiệm, nghĩa vụ và trách nhiệm đơn cử cho từng chủthể có tương quan để triển khai trách nhiệm BVQLNTD. 2. BVQLNTD phải được xem là một trong những nội dung trongchiến lược tăng trưởng vững chắc của vương quốc. Phải ưu tiên cho công tácBVQLNTD khi có sự xung đột với những bảo vệ tăng trưởng kinh tế tài chính. 3. Pháp luật BVQLNTD phải luôn được thiết kế xây dựng trên nguyên tắcưu tiên lợi thế cho NTD, tuy nhiên, vẫn phải bảo vệ quyền lợi hợp phápcủa nhà phân phối kinh doanh thương mại và những chủ thể khác có tương quan. 4. Hoạt động bảo vệ NTD phải được triển khai tiếp tục, 17 xem trọng công tác làm việc phòng ngừa, phối hợp với việc giải quyết và xử lý nghiêm khắc, triệt để mọi hành vi vi phạm pháp luật BVQLNTD. 5. Tăng cường lan rộng ra và nâng cao hiệu suất cao hợp tác quốc tế vềbảo vệ quyền lợi NTD ; Tăng cường hợp tác huấn luyện và đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích điều tra và nghiên cứu, vận dụng chuyển giao những thành tựu khoa họcvà công nghệ tiên tiến về bảo vệ NTD. 6. Nâng cao năng lực tự bảo vệ của NTD trải qua hoạt độngtuyên truyền, tư vấn, thông dụng pháp luật bảo vệ NTD, tương hỗ, giáo dụckiến thức tiêu dùng cho NTD. Và đặc biệt quan trọng nên đưa giáo dục về tiêudùng vào những chương trình giáo dục ở những trường học. 7. Tiến hành xã hội hóa hoạt động giải trí bảo vệ quyền lợi NTD, khuyếnkhích, tạo điều kiện kèm theo thuận tiện để mọi tổ chức triển khai, hội đồng dân cư, hộ giađình, cá thể tham gia hoạt động giải trí BVQLNTD. 8. Phải ưu tiên góp vốn đầu tư cho hoạt động giải trí BVQLNTD, coi góp vốn đầu tư chocông tác bảo vệ NTD là góp vốn đầu tư tăng trưởng. Cần kêu gọi mọi nguồn lựcvề kinh tế tài chính, chất xám của toàn xã hội và phải có một khoản chi riêngcho sự nghiệp BVQLNTD trong ngân sách Nhà nước hàng năm. 9. Phát triển mạng lưới bảo vệ NTD rộng khắp từ TW đếnđịa phương, mà đặc biệt quan trọng chú trọng tăng trưởng ở nông thôn, vùng sâuvùng xa. Xây dựng mạng lưới hệ thống những cơ quan hành chính, đội ngũ những bộthực hiện công tác làm việc BVQLNTD theo hướng chính quy tân tiến, tăngngân sách hài hòa và hợp lý cho sự nghiệp bảo vệ NTD. 10. Hình thành chính sách giám sát xã hội so với chủ thể sản xuất, kinh doanh thương mại kể cả cơ quan quản trị nhà nước từ phía NTD, những tổ chứcbảo vệ quyền lợi NTD mà đặc biệt quan trọng là những cơ quan thông tin đại chúng. 11. Cần tập trung chuyên sâu huấn luyện và đào tạo, nâng cao năng lượng, trình độ, đạo đứccủa cán bộ trực tiếp làm công tác làm việc quản trị nhà nước trong lĩnh vựcBVQLNTD, tận dụng sự tương hỗ vốn, kinh nghiệm tay nghề của những tổ chức triển khai chínhphủ, phi chính phủ trong và ngoài nước. 1812. Tăng cường năng lượng hoạt động giải trí, căng cường quyền tham giagiám sát cho những tổ chức triển khai BVQLNTD. Nhà nước cần có sự góp vốn đầu tư, hỗ trợkinh phí cho những tổ chức triển khai BVQLNTD nhằm mục đích Giao hàng công tác làm việc bảo vệquyền lợi NTD. Đẩy mạnh hoạt động giải trí tương hỗ, phối hợp với những tổ chứcbảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 13. Tăng cường công tác làm việc tìm hiểu, truy tố, xét xử những hành vi viphạm pháp luật bảo vệ NTD, vận dụng nghiêm những pháp luật trong Bộluật hình sự về những loại tội phạm tương quan đến công tác làm việc BVQLNTD.Tăng cường năng lượng cho mạng lưới hệ thống Tòa án nhân dân những cấp trong việcgiải quyết những vụ kiện BVQLNTD. 14. Rà soát những văn bản quy phạm pháp luật có tương quan đến hoạtđộng BVQLNTD để triển khai xong, mạng lưới hệ thống lại, vô hiệu những quy địnhmâu thuẫn, chồng chéo, thiếu tính khả thi ; Cụ thể hóa những quy địnhmang tính xu thế, chung chung ; triển khai xong những yếu tố khiếmkhuyết trên cơ sở học tập, tìm hiểu thêm kinh nghiệm tay nghề của quốc tế. 15. Xử lý nhanh gọn, kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi viphạm pháp luật bảo vệ quyền lợi của tổ chức triển khai, cá thể kinh doanh thương mại hànghóa, dịch vụ cũng như những vi phạm của những cá thể, tổ chức triển khai trongquá trình triển khai trách nhiệm thực thi pháp luật về BVQLNTD. 16. Cần kiến thiết xây dựng và hoàn thành xong cỗ máy quản trị nhà nước vềBVQLNTD từ Trung ương đến địa phương, trong đó chú trọng vấn đềhình thành đơn vị chức năng chuyên trách, sắp xếp nhân sự có trình độ, đạo đứcvà kinh phí đầu tư hài hòa và hợp lý để những bộ phận thực thi tốt những nhiệm vụBVQLNTD theo pháp luật của pháp luật. 4.3. Một số yêu cầu triển khai xong pháp luật bảo vệ người tiêudùngThứ nhất, xác lập lại đối tượng người dùng bảo vệ của pháp luậtBVQLNTD, theo đó NTD chỉ là những cá thể mua sử dụng sản phẩm & hàng hóa, 19 dịch vụ cho mục tiêu tiêu dùng, hoạt động và sinh hoạt mà không gồm có tổ chứcvà mái ấm gia đình. Thứ hai, cần xác lập tư cách khởi kiện gồm có cả nạn nhân màkhông đồng thời là người mua sản phẩm & hàng hóa. Người sử dụng hàng hóakhông do mình mua nhưng một cách hợp pháp và bị thiệt hại đến tàisản, sức khỏe thể chất, tính mạng con người, vẫn có quyền khởi kiện nhà kinh doanh đòiBTTH với tư cách là NTD.Thứ ba, pháp luật đơn cử khái niệm “ sản phẩm & hàng hóa ” và “ dịch vụ ” trong Luật Bảo vệ quyền lợi NTD để làm cơ sở xác lập khoanh vùng phạm vi bảohộ, khoanh vùng phạm vi kiểm soát và điều chỉnh của pháp luật BVQLNTD.Thứ tư, bổ trợ một số ít pháp luật tương quan đến quyền của NTDnhư bổ trợ quyền được thỏa mãn nhu cầu nhu yếu cơ bản ; Làm rõ chính sách pháplý về quyền được tư vấn, tương hỗ, hướng dẫn kỹ năng và kiến thức về tiêu dùng củaNTD. Thứ năm, cụ thể hóa nghĩa vụ và trách nhiệm bh sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ củanhà sản xuất kinh doanh thương mại. Theo đó, Bảo hành là nghĩa vụ và trách nhiệm đương nhiênmà không cần phải có thỏa thuận hợp tác. Bởi lẽ, Bảo hành là giải pháp khắcphục những lỗi hỏng hóc, sự cố về kỹ thuật của sản phẩm & hàng hóa do lỗi của nhàsản xuất trong quy trình sản xuất, lưu kho, luân chuyển Đây là tráchnhiệm, nghĩa vụ và trách nhiệm đương nhiên của người cung ứng sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ vàđó cũng là một nguyên tắc thường thì trong luật dân sự mà nhiềuquốc gia trên quốc tế đều ghi nhận. Thứ sáu, cần lao lý đơn cử về chế định nghĩa vụ và trách nhiệm loại sản phẩm : ( i ) Cần số lượng giới hạn thêm khoanh vùng phạm vi miễn trừ nghĩa vụ và trách nhiệm BTTH do hàng hóacó khuyết tật gây ra của thương nhân để bảo vệ công minh cho họnhư trong trường hợp : khuyết tật sản phẩm & hàng hóa là do phải tuân thủ những quyđịnh bắt buộc của pháp luật ; loại sản phẩm không dùng để bán hoặc để phânphối dưới những hình thức khác, nhưng bằng một cách trái pháp luật NTDcó được và sử dụng ; NTD sử dụng sản phẩm & hàng hóa hết hạn sử dụng ( ii ) Cần20xác định thương nhân nào nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm BTTH do sản phẩm & hàng hóa cókhuyết tật gây ra trong trường hợp sản phẩm & hàng hóa qua nhiều quy trình sảnxuất bởi những thương nhân khác nhau ; ( iii ) Cần pháp luật chủ thể có tráchnhiệm tìm ra khuyết tật của sản phẩm & hàng hóa là nguyên do gây thiệt hại, bởilẽ NTD không đủ năng lực để chứng tỏ mối quan hệ nhân quả giữakhuyết tật của sản phẩm & hàng hóa và thiệt hại, điều này đồng nghĩa tương quan với việckhông xác lập được chủ thể chịu nghĩa vụ và trách nhiệm BTTH cho NTD.Thứ bẩy, lao lý đơn cử nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan quản trị nhànước khi trấn áp điều kiện kèm theo thanh toán giao dịch chung, hợp đồng theo mẫu. Theo đó, trong trường hợp hợp đồng mẫu, ĐKGDC đã được chấp nhậnđăng ký bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vẫn còn tồn tạinhững lao lý bất công, trái với lao lý của pháp luật vềBVQLNTD và gây thiệt hại cho NTD thì cơ quan quản trị nhà nước đãthẩm định, gật đầu hợp đồng theo mẫu, ĐKGDC đó phải chịu tráchnhiệm. Ngoài ra, cần pháp luật tiêu chuẩn đơn cử của loại sản phẩm & hàng hóa, dịch vụphải ĐK hợp đồng mẫu, ĐKGDC và khi cung ứng những điều kiện kèm theo, tiêuchí đã nêu thì thương nhân kinh doanh thương mại loại sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ đó phảiđăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC theo pháp luật. Thứ tám, tương hỗ, tạo điều thuận tiện hơn cho những tổ chức triển khai bảo vệngười tiêu dùng. Nên công nhận tổ chức triển khai bảo vệ quyền lợi NTD là mộttổ chức xã hội đặc trưng, trên cơ sở đó tổ chức triển khai BVQLNTD mới được cấpkinh phí để hoàn toàn có thể thực thi tốt chức trách của mình. Ngoài ra, đối vớitiền BTTH trong vụ án dân sự về BVQLNTD do tổ chức triển khai BVQLNTDkhởi kiện vì quyền lợi công cộng, cần có lao lý trích để lập quỹ, phụcvụ hoạt động giải trí của tổ chức triển khai BVQLNTD.Thứ chín, lúc bấy giờ, những cơ quan quản trị nhà nước về BVQLNTDgặp rất nhiều khó khăn vất vả về nhân sự, kinh tế tài chính, thời hạn vừa phục vụcho việc làm chuyên trách lẫn kiêm nhiệm. Cần lao lý minh thị chếđộ chuyên trách so với cơ quan quản trị nhà nước về BVQLNTD để cơ21quan này đủ “ sức ” và “ tầm ” để thực thi công tác làm việc BVQLNTD ở nướcta lúc bấy giờ. Thứ mười, nâng cao mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạmhành chính trong nghành nghề dịch vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hiện nay, mức xử phạt vi phạm hành chính cũng như thẩm quyền xử phạt vi phạmhành chính trong nghành nghề dịch vụ BVQLNTD là quá thấp không đủ sức răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm. Cần nâng mức phạt tiền cũng như thẩmquyền xử phạt so với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vựcBVQLNTD. Để mức xử phạt vi phạm hành chính tương thích, không bị “ lỗi thời ” so với sự tăng trưởng kinh tế tài chính trong thời hạn dài, nên quy địnhcách thức để tính tiền phạt dựa trên khoản lợi bất chính mà chủ thể viphạm có được hoặc hoàn toàn có thể thu được từ hành vi vi phạm. Mười một, hoàn thành xong phương pháp xử lý tranh chấp củangười tiêu dùng. Luật BVQLNTD đề cập đến thủ tục rút gọn, hay cònđược gọi là thủ tục đơn thuần. Theo khoa học pháp lý, nếu xét xử theothủ tục đơn thuần thì vụ án chỉ do một thẩm phán xét xử ; bản án, quyếtđịnh của Tòa án có hiệu lực thực thi hiện hành pháp luật ngay. Tuy nhiên, lúc bấy giờ phápluật tố tụng dân sự hiện hành lại chưa thừa nhận thủ tục này. Vì vậy, tưtưởng về “ thủ tục đơn thuần ” để xử lý tranh chấp phát sinh từ quanhệ tiêu dùng vẫn chưa có thời cơ trở thành hiện thực. Thiết nghĩ, đâycũng là yếu tố được sửa đổi, bổ trợ trong pháp luật. Ngoài ra, khôngnên phân biệt giữa NTD là cá thể và NTD là tổ chức triển khai, mái ấm gia đình khi thựchiện quyền NTD của mình. Quy định này không biểu lộ một học thuyếtpháp lý minh bạch và tân tiến và không bộc lộ thực chất “ gốc ” củaquan hệ tiêu dùng. Vì vậy, yêu cầu cần sửa đổi. KẾT LUẬNPháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trên quốc tế là một lĩnh vựcnon trẻ so với lịch sử vẻ vang tăng trưởng truyền kiếp của nền kinh tế thị trường. NTDlà khái niệm khá mới lạ ở Nước Ta và trong cả khoa học pháp lý. Vấn22

Source: https://dvn.com.vn
Category: Tiêu Dùng

Alternate Text Gọi ngay