Ngày Quốc Khánh (Malaysia) – Wikipedia tiếng Việt

Hari Merdeka
(Ngày Quốc Khánh)
Hari Merdeka (Ngày Quốc Khánh)Trẻ em vẫy quốc kì Malaysia trong Ngày Quốc Khánh .
Tên chính thức Hari Merdeka
Tên gọi khác Merdeka, Hari Kebangsaan, National Day
Cử hành bởi Người Malaysia
Kiểu Quốc gia
Ý nghĩa Đánh dấu sự độc lập của Liên bang Mã Lai
Ngày 31 tháng 8
Tần suất Thường niên

Ngày Quốc Khánh (tiếng Mã Lai: Hari Merdeka, còn được gọi là Hari Kebangsaan hay “Quốc khánh”), là ngày độc lập chính thức của nước Malaysia.[1][2] Ngày này kỉ niệm Tuyên ngôn Độc lập Malayan ngày 31 tháng 8 năm 1957, được định nghĩa trong Điều 160 của Hiến pháp Malaysia.[3] Ngày này được tổ chức bằng nhiều buổi lễ và cả quan sát chính thức lẫn phi chính thức trên khắp đất nước.

Việc coi ngày 31 tháng 8 là ngày quốc khánh của Malaysia là nguyên do dẫn đến 1 số ít tranh cãi, do những lời lôi kéo rằng phải ưu tiên tổ chức triển khai lễ kỉ niệm Hari Malaysia ( Ngày Malaysia ) vào ngày 16 tháng 9. Hari Malaysia kỉ niệm sự xây dựng của nước Malaysia vào năm 1963, [ 4 ] khi bốn thực thể là Bắc Borneo, Sarawak, Nước Singapore và Malaya link lại để tạo thành Malaysia. [ 4 ] Một số người, đặc biệt quan trọng là những thành phần ở miền Đông Malaysia, cho rằng rất phi lí khi chỉ kỉ niệm ngày 31 tháng 8 năm 1957 là ngày quốc khánh của Malaysia, khi nước Malaysia chỉ mới được xây dựng vào năm 1963. [ 5 ] [ 6 ] Những người ủng hộ ngày Hari Merdeka cho rằng cái gọi là ” Liên bang ” như được định nghĩa trong Điều 160 của Hiến pháp Malaysia thực tiễn là ” Liên bang Mã Lai ” được xây dựng vào năm 1957. [ 3 ]

Sự kiện dẫn đến độc lập[sửa|sửa mã nguồn]

Nỗ lực giành độc lập được dẫn đầu bởi Tunku Abdul Rahman, Thủ tướng đầu tiên của nước Malaysia, ông đã dẫn đầu một phái đoàn gồm các bộ trưởng và nhà lãnh đạo chính trị của Mã Lai trong các cuộc đàm phán với người Anh ở Luân Đôn về Merdeka, tức là nền độc lập cùng với chủ tịch đầu tiên của Công hội người Hoa Malaysia (MCA) Tun Dato Sri Trần Trinh Lộc và Đệ Ngũ Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ Malaysia Tun V. T. Sambanthan.[7] Một khi rõ ràng rằng mối đe dọa của Cộng sản gây ra trong Tình trạng khẩn cấp Mã Lai đang giảm dần, một thỏa thuận đã đạt được vào ngày 8 tháng 2 năm 1956,[8] để Mã Lai giành độc lập khỏi Đế quốc Anh. Tuy nhiên, nhiều lí do hậu cần và hành chính đã dẫn đến việc chính thức tuyên bố độc lập vào năm sau, vào ngày 31 tháng 8 năm 1957, tại Sân vận động Merdeka (Sân vận động Độc lập), ở Kuala Lumpur, nơi được xây dựng có chủ đích để kỉ niệm ngày độc lập quốc gia. Thông báo về ngày này đã được Tunku Abdul Rahman đặt ra nhiều tháng trước đó trong một cuộc họp của Liên minh tại Malacca vào tháng 2 năm 1957.[9]

Vào sáng ngày 31 tháng 8 năm 1957, lễ hội chuyển đến Sân Merdeka mới hoàn thành. Hơn 20.000 người chứng kiến ​​buổi lễ bắt đầu lúc 9:30 sáng. Những người tham dự bao gồm nhiều nhà lãnh đạo của các bang Mã Lai, các chức sắc nước ngoài, những thành viên nội các liên bang và công dân.[10] Đại diện Nữ hoàng, Công tước Gloucester trao cho Tunku Abdul Rahman bản tuyên ngôn.[10] Sau đó Tunku tiếp tục đọc Tuyên ngôn Độc lập, đỉnh điểm là khi đám đông tham gia hô vang “Merdeka!” bảy hồi. Buổi lễ tiếp tục, lá quốc kỳ Mã Lai giương cao, kèm theo bài quốc ca chơi bởi một ban quân nhạc, rồi loạt bắn pháo hiệu 21 phát, tiếp theo đó là lời khấn azan và lời cầu nguyện tạ ơn để tôn vinh dịp tuyệt vời này.[10]

Quốc khánh ( 31 tháng 8 năm 1957 )[sửa|sửa mã nguồn]

Vào đêm 30 tháng 8 năm 1957, hơn 20.000 người đã tập trung tại Quảng trường Merdeka (Dataran Merdeka) ở Kuala Lumpur để chứng kiến sự bàn giao quyền lực từ tay người Anh. Thủ tướng được chỉ định là Tunku Abdul Rahman đến lúc 11:58 tối, tham gia cùng những thành viên của các đoàn thanh niên Liên minh Đảng quan sát hai phút bóng tối.[11] Vào lúc nửa đêm, đèn điện được bật trở lại, lá cờ Union Jack ở quảng trường hạ xuống, bài ca hoàng gia “Chúa phù hộ Nữ vương” vang lên.[12] Quốc kỳ mới của Mã Lai được kéo lên, bài quốc ca Negaraku vang lên. Tiếp sau đó là bảy tiếng hô vang “Merdeka” của đám đông.[12][13] Tunku Abdul Rahman sau đó đã có bài phát biểu ca ngợi buổi lễ là “khoảnh khắc trọng đại nhất trong cuộc đời của người Mã Lai”.[11] Trước khi phát biểu trước đám đông, ông đã được đại diện của thanh niên Liên minh Đảng tặng một chiếc vòng cổ nhân dịp kỉ niệm trọng đại trong lịch sử này, bản đồ Mã Lai được khắc lên chiếc vòng. Toàn sự kiện kết thúc lúc một giờ sáng.

Vào sáng ngày 31 tháng 8 năm 1957, lễ hội lại chuyển đến Sân Merdeka mới hoàn thành. Hơn 20.000 người chứng kiến ​​buổi lễ bắt đầu lúc 9:30 sáng. Những người tham dự bao gồm nhiều nhà lãnh đạo của các bang Mã Lai, các chức sắc nước ngoài, những thành viên nội các liên bang và công dân.[10] Đại diện Nữ hoàng, Công tước Gloucester trao cho Tunku Abdul Rahman bản tuyên ngôn.[10] Sau đó Tunku tiếp tục đọc Tuyên ngôn Độc lập, đỉnh điểm là khi đám đông tham gia hô vang “Merdeka!” bảy hồi. Buổi lễ tiếp tục, lá quốc kỳ Mã Lai giương cao, kèm theo bài quốc ca chơi bởi một ban quân nhạc, rồi loạt bắn pháo hiệu 21 phát, tiếp theo đó là lời khấn azan và lời cầu nguyện tạ ơn để tôn vinh dịp tuyệt vời này.[10]

Ngày tiếp theo là lễ lắp ráp trang trọng của Yang di-Pertuan Agong tiên phong, Tuanku Abdul Rahman của Negeri Sembilan, tại Jalan Ampang, và bữa tiệc sắp xếp tiên phong để vinh danh ông vào buổi tối, sau đó là màn trình diễn rút lui và bắn pháo hoa. Các sự kiện thể thao và những sự kiện khác đã lưu lại sự sinh ra của vương quốc mới .
Các vị khách danh dự quốc tế gồm có :

Thành viên Hoàng thất[sửa|sửa mã nguồn]

Người đứng đầu chính phủ nước nhà[sửa|sửa mã nguồn]

Đại diện từ những thuộc địa khác của Anh[sửa|sửa mã nguồn]

  • Thống đốc Hồng Kông, Ngài Alexander Grantham
  • Thủ hiến Singapore, Lâm Hữu Phúc
  • Ngài Gerald Templer (cựu Cao ủy Anh tại Mã Lai) và Lady Templer
  • Quý bà Gurney (phu nhân cựu Cao ủy Anh tại Mã Lai Ngài Henry Gurney)
  • Quý bà Gent (phu nhân cựu Cao ủy Anh tại Mã Lai Ngài Edward Gent)

Cao ủy những vương quốc Khối Thịnh vượng chung khác[sửa|sửa mã nguồn]

  • Cao ủy Canada tại Mã Lai, Arthur Redpath Menzies
  • Cao ủy Úc tại Mã Lai, Tom Critchley
  • Cao ủy New Zealand tại Mã Lai, Foss Shanahan

Sự hình thành nước Malaysia[sửa|sửa mã nguồn]

Liên bang Malaysia, gồm những tiểu bang thuộc Liên bang Mã Lai, Bắc Borneo, Sarawak và Nước Singapore, được chính thức công bố vào ngày 31 tháng 8 năm 1963, nhân kỉ niệm 6 năm ngày Mã Lai giành độc lập. Tuy nhiên lại bị hoãn lại đến ngày 16 tháng 9 năm 1963, đa phần là do sự phản đối của hai nước Indonesia và Philippines so với sự xây dựng vương quốc Malaysia. Dẫu vậy, Bắc Borneo và Nước Singapore đã công bố chủ quyền lãnh thổ ngày 31 tháng 8 năm 1963. Sự phản đối của Indonesia sau đó leo thang thành xung đột quân sự chiến lược. Indonesia coi Malaysia là một hình thức thuộc địa mới trên Sarawak và Bắc Borneo, giáp với chủ quyền lãnh thổ Indonesia trên hòn đảo Borneo. Tuy nhiên, họ không đưa ra yêu sách gì so với hai chủ quyền lãnh thổ, không giống như cách mà Philippines công bố chủ quyền lãnh thổ so với phần phía đông của Sabah. Để bảo vệ với Indonesia rằng Malaysia không phải là hình thức của chủ nghĩa thực dân mới, một cuộc khảo sát chung ( thay vì trưng cầu dân ý ) đã được Liên Hiệp Quốc tổ chức triển khai với những cuộc phỏng vấn khoảng chừng 4.000 người, đã nhận được 2.200 bản ghi nhớ từ những nhóm và cá thể. Ủy ban Cobbold, do Lord Cobbold chỉ huy, cũng được xây dựng để xác lập xem người dân Bắc Borneo và Sarawak có muốn gia nhập Malaysia hay không. Những phát hiện ở đầu cuối của họ, cho thấy sự ủng hộ đáng kể so với Malaysia giữa những dân tộc bản địa Sabah và Sarawak, đã dọn đường cho sự công bố ở đầu cuối của Malaysia .Sự xây dựng nước Liên bang Malaysia sau cuối công bố vào ngày 16 tháng 9 năm 1963, ngày kỉ niệm được coi là Ngày Malaysia. Hari Merdeka liên tục được tổ chức triển khai vào ngày 31 tháng 8, ngày độc lập khởi đầu của Mã Lai, trong khi Ngày Malaysia trở thành một ngày lễ hội chỉ ở miền Đông Malaysia. Điều này đã gây ra sự bất bình so với người miền Đông Malaysia nói riêng, nhiều lúc người ta cảm thấy rằng lễ kỉ niệm quốc khánh vào ngày 31 tháng 8 là chỉ lấy mỗi Mã Lai làm TT. [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] Vào năm 2009, người ta đã quyết định hành động rằng : mở màn từ năm 2010, Ngày Malaysia sẽ là một đợt nghỉ lễ chung trên toàn nước cùng với đợt nghỉ lễ Hari Merdeka vào ngày 31 tháng 8. [ 16 ]

Vào ngày 31 tháng 8 năm 2019, Google đã kỷ niệm Ngày Quốc Khánh của Malaysia, là ‘Hari Merdeka’ bằng một Doodle minh hoạ quốc hoa của Malaysia. Phần viết kèm theo được viết là “Hình tượng trưng ngày nay mô tả quốc hoa của Malaysia để tôn vinh Ngày Độc lập của Malaysia, được người dân địa phương gọi là Hari Merdeka. Vào ngày này năm 1957, Liên bang Mã Lai trở thành một quốc gia có chủ quyền sau nhiều năm bị Anh cai trị. Tunku Abdul Rahman, Bộ trưởng đầu tiên của Malaysia, đã đọc tuyên ngôn chính thức tại Sân vận động Merdeka ở Kuala Lumpur trước đám đông khoảng tới 20.000 người.”[17][18]

Vấn đề Hari Merdeka năm năm ngoái[sửa|sửa mã nguồn]

Về mặt pháp lí, Hari Merdeka là ngày độc lập chính thức của ‘ liên bang ‘ theo pháp luật tại Điều 160 Hiến pháp Malaysia, được xây dựng theo Thỏa thuận Liên bang Mã Lai 1957. [ 3 ] Tuy nhiên, mở màn từ năm năm ngoái, trong một chủ trương được công bố bởi sau đó là Bộ trưởng Truyền thông và Đa phương tiện Ahmad Shabery Cheek, lễ Hari Merdeka sẽ được tổ chức triển khai mà không đề cập đến số năm kể từ khi độc lập. Việc này hàm ý về Sabah và Sarawak, những vùng đã rời bỏ quyền quản lý của Anh vào một thời hạn khác. [ 19 ]Bộ trưởng Bộ Phát triển Đất đai Sarawak, ông James Jemut Masing, đã vấn đáp thông tin này bằng cách phát ngôn rằng Ngày Malaysia vào ngày 16 tháng 9 nên là điểm tập hợp cho sự thống nhất của vương quốc, chứ không phải là ngày Hari Merdeka. Ông nói thêm ” Giờ đây, mọi người đều biết rằng ngày 31 tháng 8 là Ngày Quốc khánh của Mã Lai và Sabah … đó không phải ngày độc lập ( Sarawak ) của chúng tôi. Họ hoàn toàn có thể kỉ niệm nó ở cả Mã Lai và Sabah vì họ có cùng ngày Quốc khánh và chúng tôi hoàn toàn có thể tham gia cùng họ ở đó, nếu họ mời chúng tôi. Chúng ta phải sửa sai ” .

Trước ngày 16 tháng 9 ấy, đã chẳng có nước Malaysia nào cả. Hãy để mọi người nhớ lấy điều đó. Vào ngày 16 tháng 9, bốn thực thể độc lập là Mã Lai, Nước Singapore, Sarawak và Bắc Borneo đã đồng ý chấp thuận xây dựng nên Malaysia. Và như mọi người cũng biết, Nước Singapore đã bị Malaysia trục xuất vào năm 1965 rồi .James Masing

Source: https://dvn.com.vn/
Category : National

Alternate Text Gọi ngay