skkn MỘT SỐ HINH THỨC KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO GIÚP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 TUỔI – Tài liệu text

skkn MỘT SỐ HINH THỨC KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO GIÚP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.19 KB, 16 trang )

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ HINH THỨC KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO
GIÚP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮCHO TRẺ 5 TUỔI
I. ĐẮT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là người bạn, là nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống con
người. Đặc biệt đối với trẻ mầm non, văn học có khả năng mở ra cho trẻ thế giới
hiểu biết về thế giới mọi vật xung quanh.
Cho trẻ làm quen với văn học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
trường mầm non. Bởi đây là sự dẫn dắt và mở cửa cho trẻ ngay từ những bước
chập chững đầu tiên đi vào thế giới của các giá trị phong phú chứa đựng trong văn
học. Sự tiếp xúc thường xuyên với tác phẩm văn học chọn lọc sẽ kích thích sự
nhạy cảm thẩm mĩ đồng thời phát triển thái độ sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật cũng
như hội hoạ ở trẻ. Văn học còn góp phần vào việc phát triển trí tuệ, tình cảm, đạo
đức, hình thành những phẩm chất nhân cách đầu tiên cho trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
giáo dục mầm non.Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn
ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ
còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo
đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với
nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân
ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp
dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ
kể chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả
nhất. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra một số hình thức kể chuyện sáng tạo
giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi .
Song qua thực tế tôi thấy đặc điểm tâm sinh lý nhận thức của trẻ ở độ tuổi
này còn rất nhiều hạn chế do các cơ quan và bộ máy phát âm của trẻ chưa được
hoàn thiện. Trẻ nói ngọng, nói chưa đúng, chưa đủ câu nên khả năng diễn đạt ngôn
ngữ, câu chưa được rõ ràng, mạch lạc, trẻ hiếu động không chịu ngồi yên, hay đùa

nghịch, nói tự do không tập trung chú ý nghe cô kể chuyện. Nên tôi nghĩ việc tổ
chức các hình thức gây hứng thú trẻ vào kể chuyện sáng tạo ngay từ ban đầu là rất
quan trọng và góp phần nâng cao chất lượng trong hoạt động kể chuyện sáng tạo.
Trường chúng tôi đang thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu phát triển toàn diện cho
trẻ mầm non. Do vậy là giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi này tôi
đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc biệt
là thông qua hình thức kể chuyện sáng tạo.
1
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng được tập trung nghiên cứu là trẻ mầm non nói chung, trẻ 5 tuổi
nói riêng và giáo viên mầm non.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiển ở trẻ về mặt phát triển ngôn ngữ nhằm
cung cấp vốn từ một cách tối đa, rèn luyện cho trẻ có kỷ năng giao tiếp, diễn đạt
được mạch lạc, tránh tình trạng biết nhưng không thể diễn đạt được rõ ràng đồng
thời giúp trẻ biết sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc biệt hơn là biết vận dụng các
ngôn ngữ nghệ thuật vào kể chuyện sáng tạo, qua đó giúp trẻ ngày càng làm giàu
vốn từ và mạnh dạn kể chuyện cũng như giao tiếp hàng ngày.
4. Giả thiết nghiên cứu:
– Nếu như những giáo viên được trực tiếp phụ trách công tác chăm sóc giáo
dục trẻ, thường xuyên chú ý theo dõi lắng nghe trẻ giao tiếp, đặc biết đối với
những trẻ chậm phát triển ngôn ngữ giáo viên biết quan tâm và trăn trở để rồi tìm
ra các giải pháp tối đa giúp đỡ trẻ thì chắc chắn chất lượng chăm sóc trẻ đặc biệt về
mặt phát triển ngôn ngữ mà cụ thể hơn nữa là việc dạy dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
sẽ đưa lại kết quả rất cao. Nhưng ngược lại nếu giáo viên thờ ơ không quan tâm,
không trăn trở trước những khó khăn về phát triển ngôn ngữ cho trẻ thì chắc chắn
chất lượng cho trẻ trước khi lên lớp 1 sẽ không thể đạt mục tiêu của độ tuổi phải
đạt trước khi lên lớp 1.
5. Phương pháp nghiên cứu:

Sáng kiến kinh nghiệm chủ yếu đi sâu vào phương pháp và thực hành, đồng
thời sử dụng bài tập, dựa vào bộ chuẩn phân tích đánh giá chất lượng phát triển
ngôn ngữ của trẻ, để tìm ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao việc chăm sóc
giáo dục về phát triển ngôn ngữ thông qua hình thức dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
6. Dự báo đóng góp cửu đề tài:
Trang thiết bị đồ dùng đồ chơi, tranh ảnh và các phế liệu, cơ sở vật chất sẽ
góp phần không nhỏ vào việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt thông qua hình
thức kể chuyện sáng tạo.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở khoa học.
1.1. Cơ sở lí luận:
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các giai
đoạn mang những đặc trưng khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi của trẻ.
Trẻ 5 tuổi sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn của việc tích
cực hoá vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có trật tự hơn, mặc
dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ
hoàn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển.
2
Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên
nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận
thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học.
Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua
cách đọc kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn ngữ của mình để kể chuyện
sáng tạo. Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi kể chuyện sáng tạo trẻ
phải tự nghĩ ra một nội dung câu chuyện, tạo ra cấu trúc lôgic được thể hiện trong
hình nói tương ứng (lời nói kết hợp với sử dụng đồ dung trực quan).
Yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ năng tổng hợp, kỹ
năng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói biểu
cảm. Những kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ thống
bằng con đường luyện tập thường xuyên hàng ngày.

1.2. Cơ sỡ thực tiễn:
Dạy trẻ cho trẻ tuổi mầm non kể chuyện sángs tạo có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp
tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận
với các môn khoa học khác như: Môn KPKH, làm quen với toán, âm nhạc, tạo
hình mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua dạy trẻ kể chuyện sáng tạo,
giúp trẻ được hoạt động nhiều, giúp trẻ khả năng phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn
ngữ, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm
vụ quan trọng trong chương trình giáo dục toàn diện trẻ và tạo tiền đề cho trẻ trước
khi vào lớp 1. Song qua thực tế tôi thấy đặc điểm tâm sinh lý nhận thức của trẻ ở
độ tuổi này còn rất nhiều hạn chế do các cơ quan và bộ máy phát âm của trẻ chưa
được hoàn thiện. Trẻ nói ngọng, nói chưa đúng, chưa đủ câu nên khả năng diễn đạt
ngôn ngữ, câu chưa được rõ ràng, mạch lạc, trẻ hiếu động không chịu ngồi yên,
hay đùa nghịch, nói tự do không tập trung chú ý nghe cô kể chuyện, bên cạnh đó
thời gian ở nhà do bận công việc nên phụ huynh để con mình xem ti vi quấ nhiều
dẫn đến trẻ không chậm nói còn ảnh hưỡng đến tính cách, nhiều phụ huynh cưng
chiều con nên nói nững nỉu với con dẫn đến trẻ phát âm không chính xác, nếu phát
âm sai phụ huynh cũng không sữa sai cho trẻ, chính vì thế mà việc phát triển ngôn
ngữ của trẻ khó khăn hơn nhiều.
– Kể chuyện sáng tạo là sự thể hiện bằng ngôn ngữ cửa bản thân mỗi trẻ về câu
chuyệnđồ đồ vật bức tranh hay sự vật hiện tượng xung quanh mà trẻ nghe được, được
thấy được trải nghiệm. Hoạt động này giúp trẻ trải nghiệm vốn từ một cách chủ động,
luyện phát âm, phát triển khả năng biểu đạt, tự trình bày ý kiến ngôn ngữ của mình,
hoặc cách thể hiện văn hóa nói, phát triển các thói quen hội thoại. Đặc biệt có hiệu quả
trong việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc, giúp trẻ mạnh dạn tự tin phát triển các tố chất
trước khi lên lớp 1. Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cưú đề tài: “Một số
hình thức kể chuyện sáng tạo giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi ” nhằm đáp ứng
nhu cầu nhận thức của trẻ mầm non hiện nay.
3

2. Thực trạng
a. Thuận lợi:
– Trẻ có nề nếp học tập, hứng thú tham gia các hoạt động.
– Được sự quan tâm tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, đầu tư về
cơ sở vật chất tương đối đầy đủ giúp tôi hòan thành nhiệm vụ chăm sóc giáo dục
trẻ theo đúng kế hoạch
– Ban giám hiệu đã thường xuyên tổ chức các đợt thao giảng chuyên đề giúp
tôi học tập, rút kinh nghiệm và nâng cao trình độ chuyên môn của mình.
– Bản thân là giáo viên có trình độ về chuyên môn, nhiệt tình yêu nghề mến
trẻ. Có khả năng đọc kể diễn cảm cho trẻ nghe và biết định hướng cho trẻ kể
chuyện sáng tạo có hiệu quả, tạo được môi trường hoạt động ở lớp tương đối
phong phú nên được sự tín nhiệm và tin cậy của phụ huynh.
b. Khó khăn:
– Phụ huynh cưng chiều nên khi giao tiếp với con có lúc còn nói ngang nên
dẫn đết trẻ bắt chước theo.
– Thời gian ở nhà phụ huynh cho con xem phim hoạt hình nhiều ít giao tiêp
với con nên phần còa cũng ảnh hưởng đến việc rèn trẻ nói mạch lạc.
– Đồ dùng trực quan còn ít, tính thẩm mỹ chưa cao.
– Phần lớn phụ huynh chủ yếu buôn bán nên thời gian dành cho con để cùng
nhà giáo viên dục là chưa nhiều.
– Giáo viên vận dụng tích hợp các môn học khác còn nhiều hạn chế việc sưu
tầm các câu chuyện ngoài chương trình còn ít.
– Các kỷ năng nghe, nói, đọc và nhận thức của trẻ còn chưa đồng đều.
* Khỏa sát thực trạng trước khi áp dụng biện pháp.
Tiêu chí đánh giá Số trẻ được
đánh giá
số trẻ đạt yêu
cầu
Tỷ lệ
Trẻ hứng thú tham gia

hoạt động
30 15 50%
Số trẻ biết kể chuyện
sáng tạo
30 7 23%
Kỷ năng sử dụng ngôn
ngữ giao tiếp mạch lạc,
tự tin khi giao tiếp
30 11 36%
4
3. Những biện pháp thực hiện:
* Biện pháp 1: Nghiên cứu tài liệu, cách truyền thụ để trẻ biết cách kể
chuyện sáng tạo:
Ngôn ngữ nghệ thuật có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển tâm hồn,
tình cảm, trí tuệ của trẻ. Đặc biệt sự nhạy cảm thẩm mĩ, sáng tạo ngôn ngữ và hội
hoạ. Với ngôn ngữ nghệ thuật ta giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong
giọng kể, lời thuật, phân biệt giọng điệu khắc hoạ, sự khác nhau của tình huống và
lời nói của nhân vật. Bước đầu giúp trẻ nhận ra sự khác nhau giữa ngôn ngữ
chuyện, ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính giàu hình ảnh.
Chính vì vậy bản thân tôi không ngừng tìm tòi học hỏi nghiên cứu, rèn luyện
cách thể hiện ngôn ngữ nghệ thuật để thu hút trẻ vào câu truyện kể của mình, sáng
tạo hình thức tổ chức các hoạt động gây được hứng thú. Tôi học tập bằng cách
tham khảo sách vở, dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
Đồng thời xem băng hình tiết dạy mẫu, các chương trình đóng kịch qua ti vi, lên
mạng tìm những giáo án hay về kể chuyện sáng tạo Qua đó tích luỹ kinh nghiệm
chọn lọc, vận dụng phù hợp nhận thức của trẻ, xây dựng cho mình các hoạt động,
hình thức tổ chức gây hứng thú. Để thu hút trẻ khi kể chuyện cho trẻ nghe thì đòi
hỏi rất nhiều yếu tố. trong đó nghệ thuật đọc kể là rất quan trọng. Bởi vì trẻ cảm
thụ ngôn ngữ nghệ thuật bằng cách đọc và nghe, khi đọc trẻ cảm thụ trực tiếp, khi
nghe trẻ cảm thụ qua người đọc hay kể. Đó là nhân vật mới giữa tác giả và người

nghe. Chính vì vậy mà người đọc sử dụng mọi sắc thái của giọng mình và các
phương tiện đọc kể biểu cảm khác làm cho tác phẩm cất tiếng nói, tạo cho tác
phẩm một bức tranh tương ứng.
Để gây được hứng thú cho trẻ khi kể truyện thì tôi nghĩ có rất nhiều yếu tố
tạo nên như cô giáo phải nhập vai, phải ngắt nghỉ giọng, sử dụng ngữ điệu, cường
độ giọng điệu, cử chỉ tư thế nét mặt Vì vậy tôi đã tự học tập rèn luyện như sau:
Muốn gây được hứng thú cho trẻ phải nhập vai nhân vật có nghĩa là đứng
trên quan điểm của nhân vật đó, sống thật với suy nghĩ và tình cảm của nhân vật.
VD: Trong truyện “ Chú dê đen” muốn thể hiện được nhân vật chó sói, cô
giáo phải thể hiện giọng điệu nhân vật hung dữ
+ Về ngắt giọng: Khi kể chuyện, ngắt giọng chiếm một vị trí đáng kể, đó
chính là cách nghỉ, cách dừng lại giây lát khi kể. Nhưng không chỉ đơn giản là
nghỉ, là dừng lại mà ngắt giọng là một phương tiện để bộc lộ ý tứ của câu chuyện
(như để thể hiện được tình cảm chứa đựng biểu tượng, suy nghĩ và tình cảm của
người kể). Chính vì vậy ngắt giọng sao cho có tính chất hoàn toàn tự nhiên. Có
nhiều hình thức ngắt giọng như: Ngắt giọng tâm lý, ngắt giọng lô-gíc, ngát giọng
thi ca. Ngắt giọng tâm lý tức là ngắt giọng trước những từ “ Chà chà chà ”, “Cứu
tôi với ”.
VD: Trong câu chuyện “ Cô bé quàng khăn đỏ ” có đoạn viết “ Cô bé đi vào
rừng bỗng tù phía sau bụi cây, một con chó sói xuất hiện ”. Quảng ngắt giọng giữa
5
câu, trước những từ “ Bỗng ” làm cho người nghe hồi hộp, kích thích người nghe,
trí tưởng tượng của người nghe phải làm việc căng thẳng cố gắng hình dung xem
con gì nhẩy từ trong bụi cây ra.
+ Về nhịp điệu trong khi kể: Nếu kể chuyện mà nhịp điệu cứ đều đều thì
câu chuyện sẽ không có sức sống, không gây được hứng thú cho trẻ. Vì vậy tôi
phải xác định cho từng nội dung truyện, đoạn truyện, tình huống truyện để rèn
nhịp điệu.
VD: Nhịp điêu chậm rãi thường phù hợp để mô tả hình tượng thần thoại hay
điều nghi ngại

VD: Trong chuyện “ Bông hoa cúc trắng ” khi thể hiện giọng kể của ông tiên
cần phải thể hiện giọng chậm rãi.
Nhưng cũng có những câu chuyện, đoạn chuyện cần nhịp điệu vui vẻ, hân
hoan tươi tỉnh, sôi nổi được truyền đạt với nhịp điệu khẩn trương.
+ Về cường độ của giọng khi kể chuyện: Như chúng ta đã biết trong số
những thủ thuật đọc và kể chuyện văn học phải kể đến cường độ của giọng. Cường
độ của giọng thường được hiểu nhầm là độ to, độ nhỏ cuả giọng nhưng thực chất
nó là độ vang, độ hoàn chỉnh của giọng, là khả năng điều chỉnh giọng từ to sang
nhỏ, từ nhỏ sang to.
VD: Trong truyện “Tích Chu” có đoạn “bà tiên nói vọng: đường đến suối
tiên xa lắm, cháu có đi được không? ”. Ở đoạn này thì tôi phải sử dụng độ vang để
thể hiện cường độ của giọng thay đổi tuỳ thuộc và nội dung hoàn cảnh để thể hiện
tính cách và hành vi của nhân vật đồng thời tuỳ thuộc và không gian của căn
phòng, tuỳ thuộc vào số lượng trẻ, chính vì vậy mà cô giáo phải là người chủ động.
+ Về nét mặt: Nét mặt của cô giáo khi kể hoặc đọc cũng hỗ trợ thêm cho
người nghe về hiểu hơn về câu chuyện, nét mặt phải phù hợp với ngữ điệu giọng
bộc lộ cảm xúc vui, buồn, ngạc nhiên, phấn khởi
Tóm lại, bên cạnh việc ngắt giọng, nhịp điệu cường độ của giọng, giọng nói,
cách phát âm, hơi thở là những yếu tố vô cùng quan trọng, nó góp phần quyết
định gây được hứng thú cho trẻ vào các hoạt động. Chính vì vậy, mà bản thân tôi
không ngừng rèn luyện học tập để nâng cao nghệ thuật kể chuyện.
* Biện pháp 2: Lựa chọn những câu chuyện phù hợp có nội dung hấp
dẫn sinh động để dạy trẻ kể chuyện sáng tạo:
Do đặc điểm của trẻ mầm non là trẻ thích những cái mới lạ, hấp dẫn, ngộ
nghĩnh vì thế nếu cô giáo chỉ kể cho trẻ nghe những câu truyện trong chương trình
mà trẻ đã được nghe nhiều lần là điều thật nhàm chán do đó để đáp ứng với
phương pháp đổi mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ ngày nay đồng thời giúp trẻ
hứng thú nghe cô kể truyện tôi đã nghiên cứu, sưu tầm rất nhiều câu truyện ở ngoài
chương trình có nội dung hấp dẫn sinh động phù hợp với trẻ và phù hợp với chủ
đề, chủ điểm.

6
VD: – Trong chủ điểm bản thân tôi chọn một số câu chuyện sau:
Cậu bé mũi dài; Bé Minh Quân dũng cảm; Gấu con đau răng
– Chủ điểm thế giới động vật tôi chọn một số câu chuyện sau:
“ Chú rùa thông minh ”, “ Sói xám và nai nhỏ”, “ Thỏ nâu mưu trí ”, “ Rùa
con tìm nhà ”
Ngoài việc lựa chọn những câu truyện phù hợp với chủ đề tôi còn chú ý đến
sự hấp dẫn của cốt truyện
Những truyện gây hứng thú cho trẻ là những truyện có nội dung hay, các
nhân vật gần gũi trẻ và có nhiều lời thoại.
VD: Với truyện “ Thỏ con ăn gì ” trẻ gặp được những nhân vật gần gũi như
gà trống, mèo, thỏ con, dê con. Với truyện “ Tại sao vịt kêu cạc cạc ” Trẻ lại được
gặp vịt, gà trống hoa, chị ngan.
Với những nhân vật gần gũi đó nhờ có văn học đã thổi hồn vào các con vật
đó với đầy đủ tính cách, tình cảm của con người giúp trẻ gần gũi hơn.
Trẻ không chỉ được gặp những con vật gần gũi mà còn rất hứng thú với lời
thoại trong truyện.
VD: Truyện “Chú rùa thông minh” Trẻ rất thích thú với lời thoại của các vai
Cáo, Rùa: “ ôi anh cáo ơi! Tôi cũng đang muốn được lên trời chơi đây. Anh mà
cho tôi lên trời thì tôi thích lắm.”
Hoặc với truyện “ Chú thỏ tinh khôn.” Trẻ cũng rất thích thú với lời thoại
của cá Sấu với Thỏ. “Anh cá Sấu ơi! Anh mà kêu hu hu thì tôi chẳng sợ đâu
Nếu anh kêu ha ha thì tôi sợ chết khiếp đi được.” Và trẻ bắt chiếc tiếng cười
của cá Sấu. Với những câu chuyện như trên đã thực sự lôi cuốn được trẻ, gây cho
trẻ hấp dẫn ngay từ đầu câu chuyện. Điều qua trọng trong việc sưu tầm chuyện để
kể cho trẻ nghe là những câu chuyện đó phải ngắn gọn, có tính giáo dục thiết thực
với trẻ.
VD: Những câu chuyện “Lợn con Lười tắm”, “Gấu con bị sâu răng” Ngoài
việc kể cho trẻ nghe thì tôi còn giáo dục cho trẻ biết giữ vệ sinh cho bản thân mình.
Tắm rửa sạch sẽ và giữ vệ sinh răng miệng.

Vì vậy việc lựa chọn những câu chuyện phù hợp, có nội dung sinh động hấp
dẫn trẻ là việc làm quan trọng của cô khi kể chuyện cho trẻ nghe, nó góp phần
không nhỏ vào việc tạo hứng thú cho trẻ để trẻ kể chuyện sáng tạo.
* Biện pháp 3: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
– Việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động và trải nghiệm nó vô cùng cần thiết
đối với trẻ mầm non đặc biệt trong chương trình giao dục mầm non hiện nay. Vì
thế trong những năm gần đây bản thân tôi luôn cố gằng sưu tầm các hình ảnh phù
hợp để cắt dán trang trí vào góc văn học và một số góc trong và ngoài lớp học thể
7
hiện trên các mảng tường. Vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa vào góc
văn học cho trẻ hoạt động thường ngày. Tổ chức cho trẻ sưu tàm tranh và cắt dán
tạo thành bộ sưu tập tạo thành những câu chuyện hay. Vẽ và làm các bức tranh to
về nội dung câu chuyện để thể hiện trên các mảng tường trong không gian rộng đã
giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó. Ngoàn ra để giúp
trẻ luôn hứng thú trong việc kể chuyện sáng tạo theo tranh tôi đã nghiên cứu và
làm trang trí một góc nhỏ gọi dó là “ Nhân vật của bé” nơi đó cô hoặc trẻ sẽ bỏ
hình ảnh các bức tranh cô vẽ hoặc trẻ vẽ có nội dung theo từng chủ giúp trẻ hàng
ngày quan sát và tự kể theo nội dung tranh đề. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến
thức vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh
trên mảng tường, những tập truyện tranh chữ to tôi còn nghiên cứu làm một số đồ
dung trực quan cho trẻ hoạt động như: Một số con rối dẹt có bánh xe, có cử động
tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dán
bồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo hoặc cắt dời các con vật cho trẻ
tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình.
Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủ
chủng loại về đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ hứng thú tham gia
vào hoạt động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo.
Bên cạnh đó trong giờ dạo chơi tôi còn tận dụng những bức tranh ở trường
bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể chuyện về những bức tranh đó hoặc có các
con vật trong sân trường tôi cũng gợi ý cho cho trẻ sác tác chuyện qua các con vật.

Tạo môi trường cho trẻ kể chuyện sáng tạo là một việc làm vô cùng quan
trọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Đòi hỏi cô
giáo phải biết tạo cảm xúc cho trẻ bằng các con vật ngộ nghĩnh, đáng yêu, đồng
thời cũng phải biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có cảm xúc tích cực khi tham gia hoạt
động kể chuyện sáng tạo. Qua nội dung các bức tranh, các nhân vật, các con rối trẻ
được xem và nói lên nhận xét của mình về các đồ dùng đó. Như vậy ngôn ngữ cuả
trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng.
* Biện pháp 4: Kể diễn cảm kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan.
Ở trường mầm non, trẻ tiếp nhận văn học gián tiếp thông qua lời kể của cô.
Chính vì thế lời kể của cô không hay, không diễn cảm, không gây được hứng thú
cho trẻ thì sẽ không lôi cuốn được sự chú ý của trẻ.
Như chúng ta đã biết ở mỗi câu chuyện kể đều có một nội dung phản ánh
khác nhau, có các nhân vật khác nhau. Vì vậy cô giáo phải thuộc truyện, nắm vững
nội dung truyện qua đó xác định đúng tính cách, tâm trạng của từng nhân vật để thể
hiện đúng ngữ điệu của nhân vật đó thông qua ngôn ngữ, ánh mắt, cử chỉ điệu bộ
của cô.
VD: Cũng với nhân vật chó sói trong truyện “ Cô bé quàng khăn đỏ”và chó
sói trong chuyện “ Dê con nhanh trí ” giọng của chó sói phải nhẹ nhàng, ngon ngọt
để đánh lừa cô bé và dê con. Còn chó sói trong truyện “ Chú dê đen” lại to đanh,
hung hăng hoặc Với Truyện “ Chú rùa thông minh.” Khi cáo nhìn thấy ếch xanh nó
8
lẩm bẩm “ Chà chà ta có một bữa điểm tâm thật là ngon đây.” Tôi thể hiện giọng
như đang thì thầm. Còn khi cáo đối thoại với rùa. “ À thì ra là 1 con rùa nhãi nhép
hoặc ta mà không ăn thịt được mi.” Giọng cáo lúc đấy phải to và tỏ vẻ tức giận.
Giọng của rùa lại bình tĩnh hóm hỉnh pha chút sợ sệt, giả vờ để đánh lừa cáo.
VD: Truyện “ Chú thỏ tinh khôn.” Mặc dù Thỏ đang ở trong miệng Cá Sấu
nhưng giọng Thỏ vẫn bình tĩnh, không run rẩy vì Thỏ đang tìm kế để lừa Cá Sấu.
Còn giọng Cá Sấu to, đắc thắng, sung sướng vì Cá Sấu sắp ăn thịt được Thỏ.
Với đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ ở độ tuổi này thì trong giờ kể chuyện
cô giáo chỉ chú ý đến giọng kể thôi chưa đủ mà cô giáo phải biết kết hợp với sử

dụng đồ dùng trực quan khéo léo để thu hút sự chú ý của trẻ.
Thật vậy đồ dùng trực quan là một trong những phương tiện để truyền thụ
kiến thức đến với trẻ, khi nghe kể chuyện kết hợp với việc được quan sát tranh,
xem múa rối. Trẻ như được bước vào thế giới sống động của các nhân vật đó.
Chính vì vậy trẻ rất thích thú.
Nhưng đồ dùng trực quan để phục vụ giờ kể chuyện có rất nhiều loại. Tuy
nhiên trong 1 giờ dậy tôi phải biết lựa chọn đồ dùng sao cho hợp lý để góp phần
làm tăng tính hấp dẫn của truyện.
VD: Với truyện “ Chú Rùa thông minh.” Tôi chọn tranh truyện động và sa
bàn để kể.
Với tranh truyện động khi kể đến đâu nhân vật cần di chuyển đến đó theo
đúng nội dung truyện.
VD: Khi đến đoạn Cáo “ Rón rén” tôi di chuyển nhân vật cáo từ từ, nhẹ
nhàng. Khi đến đoạn ếch nhảy xuống ao hoặc cáo lao xuống ao tôi di chuyển nhân
vật ếch, cáo nhanh hơn. Hay với đoạn chú rùa rụt đầu vào trong mai thì tôi cũng
nhẹ nhàng kéo dần dần đầu rùa vào sâu trong mai.
Khi đến đoạn Rùa cắn vào đuôi Cáo tôi điều khiển cho nhân vật cáo nhẩy
lên như là bị đau thật hoặc đoạn Cáo lao về phía ếch Xanh và Rùa. Tôi cho nhân
vật Cáo nhảy xuống nước, nước bắn lên tung tóe.
Chính với cách sử dụng như vậy đã làm tăng tính hấp dẫn của truyện, trẻ rất
chú ý nghe cô kể chuyện.
Với việc thể hiện giọng kể diện cảm kết hợp với việc sử dụng đồ dùng trực
quan sinh động tôi nhận thấy các cháu rất hứng thú say mê với câu chuyện cô kể và
chính nhờ sự say mê đó đã giúp trẻ rất nhiều trong việc hiểu nội dung truyện khắc
sâu bài học ngôn ngữ nghệ thuật, phát triển tư duy tình cảm ở trẻ.
* Biện pháp 5: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ
lời kể sáng tạo.
Để giúp trẻ phát triển tối đa về việc kể chuyện sáng tạo thì điều quan trong
cô giáo cần giúp trẻ biết cách thể hiện ngôn ngữ của nhân vật phù hợp với lời kể
9

Khi dạy trẻ kể sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh sưu tầm
bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Đây là
hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững
vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá,
nhận xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình.
Ví dụ: Gà con xinh đẹp đáng yêu, sói già gian ác, bà tiên ông bụt thì tốt
bụng còn phù thuỷ thì độc ác.
Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện, cho trẻ
xem qua đĩa hình các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô
và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý
tưởng của mình qua sự nhận thức.
Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần
hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng cố và
khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ.
Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan.
– Dạy trẻ sử dụng rối tay: Dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói,
ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại.
– Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: Chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành
một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các
nhân vật trong tranh.
– Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: Chọn những nhân vật mà trẻ thích,
sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.
Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động có chủ đích kể
chuyện sáng tạo, chủ điểm thế giới động vật như sau:
Bước 1: Hát bài “ Gà trống mèo con và cún con”. Hỏi trẻ trong bài hát có
những con vật nào.
Bước 2: Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo của cô, cô sử dụng rối kể 1 lần.
Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân vật, đặc điểm nhân vật, đặt tên
cho câu chuyện).
Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dùng trực quan mà trẻ yêu thích. Cô gợi mở ý tưởng

cho trẻ bằng cách mượn một con vật mà trẻ đã chọn và kể ngắn gọn vài câu để trẻ
biết cách kể chuyện sáng tạo.
Bước 4: Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ đánh giá và
nhận xét câu chuyện của bạn kể. Theo dõi cách sử dụng đồ dùng trực quan của trẻ
để cô góp ý nhận xét.
Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ
10
kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với ngôn
ngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng tổng hợp về “ mắt nhìn, miệng nói, tai nghe,
tay sử dụng”.
Sau đây là một số câu chuyện của trẻ khi thực hiện kể chuyện sáng tạo.
Câu chuyện “ Con lợn nhựa của tôi” tác giả cháu Hoàng Việt Bách với đồ
dùng là một con lợn nhựa được cháu thể hiện như sau:
+ Chủ nhật tớ được về quê thăm bà. Ở quê bà tớ nuôi một đàn lợn, các chú
lợn rất to và ăn rất nhiều rau với cám. Thấy tớ thích con lợn đó, bà tớ liền mua cho
tớ một con lợn, nhưng đó là con lợn nhựa. Con lợn nhựa của tớ nó chẳng ăn được
gì mà nó chỉ giúp tớ cất tiền. Đến tết ai mừng tuổi là tớ cho vào con lợn nhựa này
để gửi mẹ mua quần áo. Tớ rất yêu quý con lợn nhựa này của mình.
Trong quá trình nghiên cứu và tiến hành kể chuyện sáng tạo đến nay ở lớp
tôi đã có được một số trẻ biết kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình mà không
cần sự gợi ý của cô. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo đồ
dùng trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dùng trực quan ở
các chủ đề khác.
Thông qua các câu truyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng các ngữ điệu,
ngắt nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình đối với tác phẩm. Trẻ bắt
chước giọng kể diễn cảm của cô, trẻ có thể hiểu được một từ dùng với đồ vật
này lại có thể vào các đồ vật khác nữa. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh
mẽ, vốn từ được làm giàu thêm và qua đó trẻ cảm nhận được sự phong phú của
ngôn ngữ mẹ đẻ.
* Biện pháp 6: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng

tạo.
Với lới kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích
hợp các môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi
trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại,những câu đố, những bài
đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn.
Ví dụ: Bài thơ “Thỏ bông bị ốm” “Ong và bướm”, “Cá vàng bơi”….hoặc
cho trẻ đọc thuộc các câu đố về con chó, mèo, lợn, cá, gà…hay một số bài đồng
dao, ca dao “Vè chim”, “Đi cầu đi quán”….
Âm nhạc là môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn
tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “ Thương con mèo”,
“Một con vịt”, “đố biết con gì”, “Trời nắng trời mưa”…giúp trẻ khi kể chuyện về
con vật nào trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp với nội dung câu chuyện.
Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu
chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở dạng động
như trò chơi: Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng trời mưa, cáo và thỏ…
11
Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo
là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở
lứa tuổi này tâm lý của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Vì vậy vào giờ đón trả trẻ
tôi đưa trẻ vào góc văn học để hướng dẫn trẻ kiến thức mới và củng cố kiến thức
cũ. Đây là hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì mình có sẵn và học tập ở cô và
bạn, trẻ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn.
Việc tích hợp các môn học khác cô giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội dung
sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một
cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.
* Biện pháp 7: Giúp trẻ mạnh dạn kể lại chuyện theo kinh nghiệm.
Kể chuyện theo kinh nghiệm có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ. Trẻ sử dụng ngôn ngữ để kể lại những việc, những sự kiện mà trẻ đã trải
qua thành một câu chuyện mạch lạc mà không dùng đến đồ dùng trực quan đó là
việc không hề dễ đối với trẻ. Tôi thấy trẻ thường hay rụt rè hoặc không tự tin khi

cô mời trẻ kể kể lại chuyện gì đó. Để giúp trẻ tự tin và mạnh dạn khi kể lại chuyện
của mình cho người khác nghe điều quan trọng người giáo viên biết tạo tâm lý
thoải mái cho trẻ khơi gợi cho trẻ kể lại một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không bắt
buộc trẻ nhất thiết phải kể khi trẻ không thích. Nhưng để kích thích trẻ kể đó là cả
một nghệ thuật vào bài của cô giáo đồng thời khi trẻ đã kể để giúp trẻ nhớ và kể
được câu chuyện của mình theo trình tự, giáo viên cần đặt câu hởi gợi ý giúp trẻ
nhớ lại nội dung của chuyện theo thứ tự, từ đó trẻ sẽ mạnh dạn tự tin và tự giác kể
lại chuyện của mình cho người khác nghe khi có chuyện. Cứ như thế vốn từ của trẻ
được giàu lên, trẻ sẽ diễn đạt ngày càng mạch lạc và giúp trẻ biết dùng câu phù hợp
theo hoàn cảnh nội dụng chuyện
* Biện pháp 8: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp
không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quết định trong việc tạo nguồn nhiên
liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo.
Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội dung về chủ
đề, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn
ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn
ngữ cho trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện sáng tạo trẻ đã kể,
yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các
câu chuyện khác cho gia đình nghe. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một
cách phong phú và đa dạng.
12
Huy động phụ huynh đóng góp tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhập
những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo hoạ mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp,
mút xốp…kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh.
3. Phân tích tổng hợp rút ra bài học kết luận khoa học.

Ngành giáo dục mầm non là ngành học đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp đào tạo con người, là cơ sở hình thành và phát triển con người. Chính
vì vậy là một giáo viên mầm non luôn cần có phẩm chất đạo đức, lối sống, tư
tưởng, lập trường vững vàng cần phải có lòng nhiệt tình yêu nghề mến trẻ.
Luôn bồi dưỡng, trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng phát âm chuẩn cho trẻ.
Vì kỹ năng này đóng một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của
trẻ, giúp trẻ có thêm nhiều vốn từ mới làm cho kho tàng kiến thức của trẻ
phong phú hơn.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
là một việc làm rất cần thiết để đưa trẻ vào thế giới văn học bao la rộng lớn
góp phần hoàn thiện nhân cách trẻ. Mỗi chúng ta cần thấy sức mạnh to lớn của
tiếng nói văn học tốt lành, đẹp đẽ và bằng cả trái tim mình đem tiếng nói ấy
gieo lên mảnh đất phì nhiêu là tâm hồn con trẻ và cũng là thiết thực nhất trong
chương trình GD mầm non hiện nay, để thực hiện được nhiệm vụ đó đòi đòi
hỏi cô giáo cần phải có sự sáng tạo, linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì
rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên vào việc dạy
trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi đã rút ra những bài
kết luận sau:
1. Cô giáo phải biết rõ về tâm lý cũng như mặt phát triển ngôn ngữ của
trẻ lớp mình phụ trách để tìm và vận dụng các biện pháp phù hợp
2. Cô giáo phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường tốt cho trẻ
hoạt động một cách tích cực nhất, biết tạo cảm xúc cho trẻ khi kể chuyện sáng
tạo.
3. Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ đặt tên cho nội dung vừa
trò chuyện hoặc tóm tắt ngắn gọn những điều vừa trò chuyện.
4. Khuyến khích trẻ nói những ý nghĩ của trẻ qua nội dung hay chủ điểm nào
đó nhằm giúp trẻ luyện cách trình bày, diễn đạt ý.
5. Cho trẻ tham quan, hướng dẫn từ quan sát sự vật, hiện tượng nhằm mở
rộng vốn hiểu biết cho trẻ; kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu bản chất của sự vật,

hiện tượng và nói lên nhận xét của mình.
6. Mở rộng vốn từ cho trẻ và khuyến khích trẻ sử dụng vốn từ trẻ học được
trong các hoạt động khác nhau, đặc biệt qua các trò chơi ngôn ngữ, trò chuyện,
đàm thoại giữa cô với trẻ, trẻ với trẻ.
13
7. Tích cực học tập, trau đồi kinh nghiệm của chị em đồng nghiệp nhằm
nâng cao nghệ thuật lên lớp trong giờ kể chuyện.
* Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài
Tiêu chí đánh giá
Trước khi áp dụng các
biện pháp
Sau khi áp dụng các biện
pháp
Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ
Trẻ hứng thú tham
gia vào hoạt động
kể chuyện sáng tạo
15 50% 27 90%
Trẻ biết kể chuyện
sáng tạo
7 23% 15 50%
Kỷ năng sử dung
ngôn ngữ trong
giao tiếp và giao
tiếp tự tin mạnh dạn
11 36% 25 83%
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Sau khi thực hiện các biện pháp tôi đã thu được một số kết quả sau:
1.1. Về bản thân:

– Tôi thấy mình đã nâng cao được phong cách nghệ thuật lên lớp,giọng kể
được trau dồi diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học.
– Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ kể chuyện sáng
tạo, sưu tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chương
trình.
– Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt ở các góc, đặc biệt là góc văn
học.
– Tôi đã tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại rối
phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
– Các tiết dạy kể chuyện sáng tạo tôi tham gia qua những tiết thao giảng do
trường tổ chức và những lời nhận xét đánh giá của Ban Giám Hiệu tôi đã đúc rút
được nhiều kinh nghiệm cho mình .
1. 2. Về trẻ:
– Sau thực hiện trẻ đã đạt kết quả sau:
14
+ Đa phần trẻ háo hức và rất chú ý lắng nghe từ đầu đến cuối câu chuyện vì
vậy trẻ hiểu nội dung câu chuyện và kể lại câu chuyện bằng ngôn ngữ và sự sáng
tạo của trẻ.
1.3. Về đồ dùng trực quan:
– Xây dựng một góc tuyên truyền về các câu chuyện sáng tạo của cô của trẻ
đa dạng, phong phú.
– Làm các bộ truyện tranh chữ to.
– Sưu tầm rất nhiều tranh ảnh theo từng chủ điểm cho trẻ kể chuyện.
– Làm các con rối dẹt và một số con rối tay cho trẻ hoạt động ở mỗi chủ
điểm.
– Làm một số con rối tay cho cô hoạt động.
– Có một mảng tường mở cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo.
1.4. Về phụ huynh:
– Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để
phát triện ngôn ngữ cho trẻ.

– Đóng góp về kinh phí và nhiều vật liệu để tạo góc văn học cho lớp, làm
các đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học.
– Phụ huynh hiểu được rõ hơn về nội dung chương trình học của trường
mầm non
2. Đề xuất
– Sau khi áp dụng các biện phát trên bản thân tối thấy môi trường để trẻ được
trải nghiệm về hoạt động ngôn ngữ là còn ít, đặc biệt mô hình vườn cổ tích chưa
mấy trường có, để giúp trẻ có được môi trường văn học cụ thể xây dựng được
vườn cổ tích tôi xin đề xuất với phòng giáo dục hổ trợ thêm kinh phí cho các
trường mầm non xây được vườn cổ tích tạo điều kiện cho trẻ được làm quen văn
học ở một hình thức thoải mái nhất nhằm làm tăng khả năng cảm thụ văn học và
phát triển ngôn ngữ một cách tối đa nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm “một số hình thức kể chuyện sáng tạo giúp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi ”
Tôi Xin chân thành cảm ơn!
15
16
nghịch, nói tự do không tập trung chuyên sâu chú ý quan tâm nghe cô kể chuyện. Nên tôi nghĩ việc tổchức những hình thức gây hứng thú trẻ vào kể chuyện sáng tạo ngay từ khởi đầu là rấtquan trọng và góp thêm phần nâng cao chất lượng trong hoạt động giải trí kể chuyện sáng tạo. Trường chúng tôi đang triển khai chương trình chăm nom giáo dục trẻ. Việcphát triển ngôn từ cho trẻ là một trong những tiềm năng tăng trưởng tổng lực chotrẻ mần nin thiếu nhi. Do vậy là giáo viên trực tiếp chăm nom giáo dục trẻ ở lứa tuổi này tôiđã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc tăng trưởng ngôn từ cho trẻ. Đặc biệtlà trải qua hình thức kể chuyện sáng tạo. 2. Đối tượng điều tra và nghiên cứu và khoanh vùng phạm vi điều tra và nghiên cứu : Đối tượng được tập trung chuyên sâu nghiên cứu và điều tra là trẻ mần nin thiếu nhi nói chung, trẻ 5 tuổinói riêng và giáo viên mần nin thiếu nhi. 3. Mục tiêu điều tra và nghiên cứu : Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiển ở trẻ về mặt tăng trưởng ngôn từ nhằmcung cấp vốn từ một cách tối đa, rèn luyện cho trẻ có kỷ năng tiếp xúc, diễn đạtđược mạch lạc, tránh thực trạng biết nhưng không hề diễn đạt được rõ ràng đồngthời giúp trẻ biết sử dụng ngôn từ nghệ thuật và thẩm mỹ đặc biệt quan trọng hơn là biết vận dụng cácngôn ngữ thẩm mỹ và nghệ thuật vào kể chuyện sáng tạo, qua đó giúp trẻ ngày càng làm giàuvốn từ và mạnh dạn kể chuyện cũng như tiếp xúc hàng ngày. 4. Giả thiết điều tra và nghiên cứu : – Nếu như những giáo viên được trực tiếp đảm nhiệm công tác làm việc chăm nom giáodục trẻ, liên tục chú ý quan tâm theo dõi lắng nghe trẻ tiếp xúc, đặc biết đối vớinhững trẻ chậm tăng trưởng ngôn từ giáo viên biết chăm sóc và trăn trở để rồi tìmra những giải pháp tối đa giúp sức trẻ thì chắc như đinh chất lượng chăm nom trẻ đặc biệt quan trọng vềmặt tăng trưởng ngôn từ mà đơn cử hơn nữa là việc dạy dạy trẻ kể chuyện sáng tạosẽ đưa lại tác dụng rất cao. Nhưng ngược lại nếu giáo viên hờ hững không chăm sóc, không trăn trở trước những khó khăn vất vả về tăng trưởng ngôn từ cho trẻ thì chắc chắnchất lượng cho trẻ trước khi lên lớp 1 sẽ không hề đạt tiềm năng của độ tuổi phảiđạt trước khi lên lớp 1.5. Phương pháp nghiên cứu và điều tra : Sáng kiến kinh nghiệm tay nghề hầu hết đi sâu vào giải pháp và thực hành thực tế, đồngthời sử dụng bài tập, dựa vào bộ chuẩn nghiên cứu và phân tích nhìn nhận chất lượng phát triểnngôn ngữ của trẻ, để tìm ra những giải pháp cơ bản nhằm mục đích nâng cao việc chăm sócgiáo dục về tăng trưởng ngôn từ trải qua hình thức dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. 6. Dự báo góp phần cửu đề tài : Trang thiết bị vật dụng đồ chơi, tranh vẽ và những phế liệu, cơ sở vật chất sẽgóp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng ngôn từ cho trẻ đặc biệt quan trọng trải qua hìnhthức kể chuyện sáng tạo. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ1. Cơ sở khoa học. 1.1. Cơ sở lí luận : Sự tăng trưởng ngôn từ của trẻ là một quy trình từ thấp đến cao với những giaiđoạn mang những đặc trưng khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi của trẻ. Trẻ 5 tuổi sự tăng trưởng ngôn từ mạch lạc chịu tác động ảnh hưởng lớn của việc tíchcực hoá vốn từ, ngôn từ của trẻ đã trở nên được lan rộng ra hơn, có trật tự hơn, mặcdù cấu trúc còn chưa triển khai xong. Khả năng nói trình diễn ý nghĩa, hiểu ngôn ngữhoàn cảnh của trẻ cũng đã khởi đầu tăng trưởng. Bằng những hình tượng văn học mở ra cho trẻ đời sống với xã hội và thiênnhiên, những mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhậnthức được tính rõ ràng, đúng chuẩn của từ ngữ trong tác phẩm văn học. Với trách nhiệm khơi dậy ở trẻ tình yêu so với từ ngữ thẩm mỹ và nghệ thuật thông quacách đọc kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn từ của mình để kể chuyệnsáng tạo. Đây là một trách nhiệm rất phức tạp, nhu yếu khi kể chuyện sáng tạo trẻphải tự nghĩ ra một nội dung câu truyện, tạo ra cấu trúc lôgic được bộc lộ tronghình nói tương ứng ( lời nói phối hợp với sử dụng đồ dung trực quan ). Yêu cầu này yên cầu trẻ phải có vốn từ phong phú và đa dạng, những kỹ năng và kiến thức tổng hợp, kỹnăng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách đúng chuẩn, tập trung chuyên sâu quan tâm và nói biểucảm. Những kiến thức và kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quy trình nhận thức có hệ thốngbằng con đường rèn luyện liên tục hàng ngày. 1.2. Cơ sỡ thực tiễn : Dạy trẻ cho trẻ tuổi mần nin thiếu nhi kể chuyện sángs tạo có một ý nghĩa đặc biệtquan trọng. Ngôn ngữ của trẻ tăng trưởng tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếptốt góp thêm phần quan trọng vào việc hình thành và tăng trưởng nhân cách cho trẻ. Việcphát triển ngôn từ mạch lạc cho trẻ trong tiếp xúc sẽ giúp trẻ thuận tiện tiếp cậnvới những môn khoa học khác như : Môn KPKH, làm quen với toán, âm nhạc, tạohình mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt quan trọng là trải qua dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ được hoạt động giải trí nhiều, giúp trẻ năng lực tăng trưởng trí nhớ, tư duy và ngônngữ, năng lực cảm thụ cái hay, cái đẹp. Phát triển ngôn từ cho trẻ là một nhiệmvụ quan trọng trong chương trình giáo dục tổng lực trẻ và tạo tiền đề cho trẻ trướckhi vào lớp 1. Song qua trong thực tiễn tôi thấy đặc điểm tâm sinh lý nhận thức của trẻ ởđộ tuổi này còn rất nhiều hạn chế do những cơ quan và cỗ máy phát âm của trẻ chưađược hoàn thành xong. Trẻ nói ngọng, nói chưa đúng, chưa đủ câu nên năng lực diễn đạtngôn ngữ, câu chưa được rõ ràng, mạch lạc, trẻ hiếu động không chịu ngồi yên, hay đùa nghịch, nói tự do không tập trung chuyên sâu chú ý quan tâm nghe cô kể chuyện, bên cạnh đóthời gian ở nhà do bận việc làm nên cha mẹ để con mình xem ti vi quấ nhiềudẫn đến trẻ không chậm nói còn ảnh hưỡng đến tính cách, nhiều cha mẹ cưngchiều con nên nói nững nỉu với con dẫn đến trẻ phát âm không đúng chuẩn, nếu phátâm sai cha mẹ cũng không sữa sai cho trẻ, chính do đó mà việc tăng trưởng ngônngữ của trẻ khó khăn vất vả hơn nhiều. – Kể chuyện sáng tạo là sự bộc lộ bằng ngôn từ cửa bản thân mỗi trẻ về câuchuyệnđồ vật phẩm bức tranh hay sự vật hiện tượng kỳ lạ xung quanh mà trẻ nghe được, đượcthấy được thưởng thức. Hoạt động này giúp trẻ thưởng thức vốn từ một cách dữ thế chủ động, luyện phát âm, tăng trưởng năng lực diễn đạt, tự trình diễn quan điểm ngôn từ của mình, hoặc cách biểu lộ văn hóa truyền thống nói, tăng trưởng những thói quen hội thoại. Đặc biệt có hiệu quảtrong việc tăng trưởng ngôn từ mạch lạc, giúp trẻ mạnh dạn tự tin tăng trưởng những tố chấttrước khi lên lớp 1. Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cưú đề tài : “ Một sốhình thức kể chuyện sáng tạo giúp tăng trưởng ngôn từ cho trẻ 5 tuổi ” nhằm mục đích đáp ứngnhu cầu nhận thức của trẻ mần nin thiếu nhi lúc bấy giờ. 2. Thực trạnga. Thuận lợi : – Trẻ có nề nếp học tập, hứng thú tham gia những hoạt động giải trí. – Được sự chăm sóc tạo điều kiện kèm theo của BGH nhà trường, góp vốn đầu tư vềcơ sở vật chất tương đối khá đầy đủ giúp tôi hòan thành trách nhiệm chăm nom giáo dụctrẻ theo đúng kế hoạch – Ban giám hiệu đã liên tục tổ chức triển khai những đợt thao giảng chuyên đề giúptôi học tập, rút kinh nghiệm tay nghề và nâng cao trình độ trình độ của mình. – Bản thân là giáo viên có trình độ về trình độ, nhiệt tình yêu nghề mếntrẻ. Có năng lực đọc kể diễn cảm cho trẻ nghe và biết khuynh hướng cho trẻ kểchuyện sáng tạo có hiệu suất cao, tạo được môi trường tự nhiên hoạt động giải trí ở lớp tương đốiphong phú nên được sự tin tưởng và đáng tin cậy của cha mẹ. b. Khó khăn : – Phụ huynh cưng chiều nên khi tiếp xúc với con có lúc còn nói ngang nêndẫn đết trẻ bắt chước theo. – Thời gian ở nhà cha mẹ cho con xem phim hoạt hình nhiều ít giao tiêpvới con nên phần còa cũng tác động ảnh hưởng đến việc rèn trẻ nói mạch lạc. – Đồ dùng trực quan còn ít, tính nghệ thuật và thẩm mỹ chưa cao. – Phần lớn cha mẹ hầu hết kinh doanh nên thời hạn dành cho con để cùngnhà giáo viên dục là chưa nhiều. – Giáo viên vận dụng tích hợp những môn học khác còn nhiều hạn chế việc sưutầm những câu truyện ngoài chương trình còn ít. – Các kỷ năng nghe, nói, đọc và nhận thức của trẻ còn chưa đồng đều. * Khỏa sát tình hình trước khi vận dụng giải pháp. Tiêu chí nhìn nhận Số trẻ đượcđánh giásố trẻ đạt yêucầuTỷ lệTrẻ hứng thú tham giahoạt động30 15 50 % Số trẻ biết kể chuyệnsáng tạo30 7 23 % Kỷ năng sử dụng ngônngữ tiếp xúc mạch lạc, tự tin khi giao tiếp30 11 36 % 3. Những giải pháp triển khai : * Biện pháp 1 : Nghiên cứu tài liệu, cách truyền thụ để trẻ biết cách kểchuyện sáng tạo : Ngôn ngữ nghệ thuật và thẩm mỹ có tác động ảnh hưởng không nhỏ đến sự tăng trưởng tâm hồn, tình cảm, trí tuệ của trẻ. Đặc biệt sự nhạy cảm thẩm mĩ, sáng tạo ngôn từ và hộihoạ. Với ngôn từ thẩm mỹ và nghệ thuật ta giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản tronggiọng kể, lời thuật, phân biệt giọng điệu khắc hoạ, sự khác nhau của trường hợp vàlời nói của nhân vật. Bước đầu giúp trẻ nhận ra sự khác nhau giữa ngôn ngữchuyện, ngôn từ đời thường và ngôn từ thơ giàu nhạc tính giàu hình ảnh. Chính thế cho nên bản thân tôi không ngừng tìm tòi học hỏi điều tra và nghiên cứu, rèn luyệncách bộc lộ ngôn từ thẩm mỹ và nghệ thuật để lôi cuốn trẻ vào câu truyện kể của mình, sángtạo hình thức tổ chức triển khai những hoạt động giải trí gây được hứng thú. Tôi học tập bằng cáchtham khảo sách vở, dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm tay nghề cho bản thân. Đồng thời xem băng hình tiết dạy mẫu, những chương trình đóng kịch qua TV, lênmạng tìm những giáo án hay về kể chuyện sáng tạo Qua đó tích luỹ kinh nghiệmchọn lọc, vận dụng tương thích nhận thức của trẻ, thiết kế xây dựng cho mình những hoạt động giải trí, hình thức tổ chức triển khai gây hứng thú. Để lôi cuốn trẻ khi kể chuyện cho trẻ nghe thì đòihỏi rất nhiều yếu tố. trong đó nghệ thuật và thẩm mỹ đọc kể là rất quan trọng. Bởi vì trẻ cảmthụ ngôn từ thẩm mỹ và nghệ thuật bằng cách đọc và nghe, khi đọc trẻ cảm thụ trực tiếp, khinghe trẻ cảm thụ qua người đọc hay kể. Đó là nhân vật mới giữa tác giả và ngườinghe. Chính vì thế mà người đọc sử dụng mọi sắc thái của giọng mình và cácphương tiện đọc kể biểu cảm khác làm cho tác phẩm cất tiếng nói, tạo cho tácphẩm một bức tranh tương ứng. Để gây được hứng thú cho trẻ khi kể truyện thì tôi nghĩ có rất nhiều yếu tốtạo nên như cô giáo phải nhập vai, phải ngắt nghỉ giọng, sử dụng ngôn từ, cườngđộ giọng điệu, cử chỉ tư thế nét mặt Vì vậy tôi đã tự học tập rèn luyện như sau : Muốn gây được hứng thú cho trẻ phải nhập vai nhân vật có nghĩa là đứngtrên quan điểm của nhân vật đó, sống thật với tâm lý và tình cảm của nhân vật. VD : Trong truyện “ Chú dê đen ” muốn bộc lộ được nhân vật chó sói, côgiáo phải biểu lộ giọng điệu nhân vật hung ác + Về ngắt giọng : Khi kể chuyện, ngắt giọng chiếm một vị trí đáng kể, đóchính là cách nghỉ, cách dừng lại giây lát khi kể. Nhưng không chỉ đơn thuần lànghỉ, là dừng lại mà ngắt giọng là một phương tiện đi lại để thể hiện ý tứ của câu truyện ( như để biểu lộ được tình cảm tiềm ẩn hình tượng, tâm lý và tình cảm củangười kể ). Chính thế cho nên ngắt giọng sao cho có đặc thù trọn vẹn tự nhiên. Cónhiều hình thức ngắt giọng như : Ngắt giọng tâm ý, ngắt giọng lô-gíc, ngát giọngthi ca. Ngắt giọng tâm ý tức là ngắt giọng trước những từ “ Chà chà chà ”, “ Cứutôi với ”. VD : Trong câu truyện “ Cô bé quàng khăn đỏ ” có đoạn viết “ Cô bé đi vàorừng bỗng tù phía sau bụi cây, một con chó sói Open ”. Quảng ngắt giọng giữacâu, trước những từ “ Bỗng ” làm cho người nghe hoảng sợ, kích thích người nghe, trí tưởng tượng của người nghe phải thao tác stress cố gắng nỗ lực tưởng tượng xemcon gì nhẩy từ trong bụi cây ra. + Về nhịp điệu trong khi kể : Nếu kể chuyện mà nhịp điệu cứ túc tắc thìcâu chuyện sẽ không có sức sống, không gây được hứng thú cho trẻ. Vì vậy tôiphải xác lập cho từng nội dung truyện, đoạn truyện, trường hợp truyện để rènnhịp điệu. VD : Nhịp điêu chậm rãi thường tương thích để diễn đạt hình tượng thần thoại cổ xưa hayđiều nghi ngạiVD : Trong chuyện “ Bông hoa cúc trắng ” khi bộc lộ giọng kể của ông tiêncần phải bộc lộ giọng chậm rãi. Nhưng cũng có những câu truyện, đoạn chuyện cần nhịp điệu vui tươi, hânhoan tươi tỉnh, sôi sục được truyền đạt với nhịp điệu khẩn trương. + Về cường độ của giọng khi kể chuyện : Như tất cả chúng ta đã biết trong sốnhững thủ pháp đọc và kể chuyện văn học phải kể đến cường độ của giọng. Cườngđộ của giọng thường được hiểu nhầm là độ to, độ nhỏ cuả giọng nhưng thực chấtnó là độ vang, độ hoàn hảo của giọng, là năng lực kiểm soát và điều chỉnh giọng từ to sangnhỏ, từ nhỏ sang to. VD : Trong truyện “ Tích Chu ” có đoạn “ bà tiên nói vọng : đường đến suốitiên xa lắm, cháu có đi được không ? ”. Ở đoạn này thì tôi phải sử dụng độ vang đểthể hiện cường độ của giọng biến hóa tuỳ thuộc và nội dung thực trạng để thể hiệntính cách và hành vi của nhân vật đồng thời tuỳ thuộc và khoảng trống của cănphòng, tuỳ thuộc vào số lượng trẻ, chính thế cho nên mà cô giáo phải là người dữ thế chủ động. + Về nét mặt : Nét mặt của cô giáo khi kể hoặc đọc cũng tương hỗ thêm chongười nghe về hiểu hơn về câu truyện, nét mặt phải tương thích với ngôn từ giọngbộc lộ xúc cảm vui, buồn, kinh ngạc, phấn khởiTóm lại, bên cạnh việc ngắt giọng, nhịp điệu cường độ của giọng, giọng nói, cách phát âm, hơi thở là những yếu tố vô cùng quan trọng, nó góp thêm phần quyếtđịnh gây được hứng thú cho trẻ vào những hoạt động giải trí. Chính thế cho nên, mà bản thân tôikhông ngừng rèn luyện học tập để nâng cao thẩm mỹ và nghệ thuật kể chuyện. * Biện pháp 2 : Lựa chọn những câu truyện tương thích có nội dung hấpdẫn sinh động để dạy trẻ kể chuyện sáng tạo : Do đặc thù của trẻ mần nin thiếu nhi là trẻ thích những cái mới lạ, mê hoặc, ngộnghĩnh vì vậy nếu cô giáo chỉ kể cho trẻ nghe những câu truyện trong chương trìnhmà trẻ đã được nghe nhiều lần là điều thật nhàm chán do đó để cung ứng vớiphương pháp thay đổi hình thức tổ chức triển khai giáo dục trẻ ngày này đồng thời giúp trẻhứng thú nghe cô kể truyện tôi đã nghiên cứu và điều tra, sưu tầm rất nhiều câu truyện ở ngoàichương trình có nội dung mê hoặc sinh động tương thích với trẻ và tương thích với chủđề, chủ điểm. VD : – Trong chủ điểm bản thân tôi chọn 1 số ít câu truyện sau : Cậu bé mũi dài ; Bé Minh Quân quả cảm ; Gấu con đau răng – Chủ điểm quốc tế động vật hoang dã tôi chọn một số ít câu truyện sau : “ Chú rùa mưu trí ”, “ Sói xám và nai nhỏ ”, “ Thỏ nâu mưu trí ”, “ Rùacon tìm nhà ” Ngoài việc lựa chọn những câu truyện tương thích với chủ đề tôi còn chú ý quan tâm đếnsự mê hoặc của cốt truyệnNhững truyện gây hứng thú cho trẻ là những truyện có nội dung hay, cácnhân vật thân thiện trẻ và có nhiều lời thoại. VD : Với truyện “ Thỏ con ăn gì ” trẻ gặp được những nhân vật thân thiện nhưgà trống, mèo, thỏ con, dê con. Với truyện “ Tại sao vịt kêu cạc cạc ” Trẻ lại đượcgặp vịt, gà trống hoa, chị ngan. Với những nhân vật thân thiện đó nhờ có văn học đã thổi hồn vào những con vậtđó với không thiếu tính cách, tình cảm của con người giúp trẻ thân mật hơn. Trẻ không riêng gì được gặp những con vật thân thiện mà còn rất hứng thú với lờithoại trong truyện. VD : Truyện “ Chú rùa mưu trí ” Trẻ rất thú vị với lời thoại của những vaiCáo, Rùa : “ ôi anh cáo ơi ! Tôi cũng đang muốn được lên trời chơi đây. Anh màcho tôi lên trời thì tôi thích lắm. ” Hoặc với truyện “ Chú thỏ tinh ranh. ” Trẻ cũng rất thú vị với lời thoạicủa cá Sấu với Thỏ. “ Anh cá Sấu ơi ! Anh mà kêu hu hu thì tôi chẳng sợ đâuNếu anh kêu ha ha thì tôi sợ chết khiếp đi được. ” Và trẻ bắt chiếc tiếng cườicủa cá Sấu. Với những câu truyện như trên đã thực sự hấp dẫn được trẻ, gây chotrẻ mê hoặc ngay từ đầu câu truyện. Điều qua trọng trong việc sưu tầm chuyện đểkể cho trẻ nghe là những câu truyện đó phải ngắn gọn, có tính giáo dục thiết thựcvới trẻ. VD : Những câu truyện “ Lợn con Lười tắm ”, “ Gấu con bị sâu răng ” Ngoàiviệc kể cho trẻ nghe thì tôi còn giáo dục cho trẻ biết giữ vệ sinh cho bản thân mình. Tắm rửa thật sạch và giữ vệ sinh răng miệng. Vì vậy việc lựa chọn những câu truyện tương thích, có nội dung sinh động hấpdẫn trẻ là việc làm quan trọng của cô khi kể chuyện cho trẻ nghe, nó góp phầnkhông nhỏ vào việc tạo hứng thú cho trẻ để trẻ kể chuyện sáng tạo. * Biện pháp 3 : Tạo môi trường tự nhiên hoạt động giải trí cho trẻ kể chuyện sáng tạo. – Việc tạo môi trường tự nhiên cho trẻ hoạt động giải trí và thưởng thức nó vô cùng cần thiếtđối với trẻ mần nin thiếu nhi đặc biệt quan trọng trong chương trình giao dục mần nin thiếu nhi lúc bấy giờ. Vìthế trong những năm gần đây bản thân tôi luôn cố gằng sưu tầm những hình ảnh phùhợp để cắt dán trang trí vào góc văn học và một số ít góc trong và ngoài lớp học thểhiện trên những mảng tường. Vận động cha mẹ góp phần truyện tranh đưa vào gócvăn học cho trẻ hoạt động giải trí thường ngày. Tổ chức cho trẻ sưu tàm tranh và cắt dántạo thành bộ sưu tập tạo thành những câu truyện hay. Vẽ và làm những bức tranh tovề nội dung câu truyện để bộc lộ trên những mảng tường trong khoảng trống rộng đãgiúp trẻ dễ tri giác, trẻ được đàm đạo, đàm đạo về câu truyện đó. Ngoàn ra để giúptrẻ luôn hứng thú trong việc kể chuyện sáng tạo theo tranh tôi đã nghiên cứu và điều tra vàlàm trang trí một góc nhỏ gọi dó là “ Nhân vật của bé ” nơi đó cô hoặc trẻ sẽ bỏhình ảnh những bức tranh cô vẽ hoặc trẻ vẽ có nội dung theo từng chủ giúp trẻ hàngngày quan sát và tự kể theo nội dung tranh đề. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiếnthức vào kể chuyện sáng tạo một cách thuận tiện. Ngoài việc tạo những bức tranhtrên mảng tường, những tập truyện tranh chữ to tôi còn nghiên cứu và điều tra làm một số ít đồdung trực quan cho trẻ hoạt động giải trí như : Một số con rối dẹt có bánh xe, có cử độngtay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những mẫu sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dánbồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo hoặc cắt dời những con vật cho trẻtự chọn những con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng sáng tạo của mình. Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủchủng loại về vật dụng trực quan phong phú đa dạng chủng loại, đã giúp trẻ hứng thú tham giavào hoạt động giải trí và nhiều ý tưởng sáng tạo hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo. Bên cạnh đó trong giờ đi dạo tôi còn tận dụng những bức tranh ở trườngbằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể chuyện về những bức tranh đó hoặc có cáccon vật trong sân trường tôi cũng gợi ý cho cho trẻ sác tác chuyện qua những con vật. Tạo thiên nhiên và môi trường cho trẻ kể chuyện sáng tạo là một việc làm vô cùng quantrọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chãi cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Đòi hỏi côgiáo phải ghi nhận tạo xúc cảm cho trẻ bằng những con vật ngộ nghĩnh, dễ thương và đáng yêu, đồngthời cũng phải biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có xúc cảm tích cực khi tham gia hoạtđộng kể chuyện sáng tạo. Qua nội dung những bức tranh, những nhân vật, những con rối trẻđược xem và nói lên nhận xét của mình về những vật dụng đó. Như vậy ngôn từ cuảtrẻ được tăng trưởng một cách phong phú và đa dạng và phong phú. * Biện pháp 4 : Kể diễn cảm tích hợp với sử dụng vật dụng trực quan. Ở trường mần nin thiếu nhi, trẻ tiếp đón văn học gián tiếp trải qua lời kể của cô. Chính vì vậy lời kể của cô không hay, không diễn cảm, không gây được hứng thúcho trẻ thì sẽ không hấp dẫn được sự quan tâm của trẻ. Như tất cả chúng ta đã biết ở mỗi câu truyện kể đều có một nội dung phản ánhkhác nhau, có những nhân vật khác nhau. Vì vậy cô giáo phải thuộc truyện, nắm vữngnội dung truyện qua đó xác lập đúng tính cách, tâm trạng của từng nhân vật để thểhiện đúng ngôn từ của nhân vật đó trải qua ngôn từ, ánh mắt, cử chỉ điệu bộcủa cô. VD : Cũng với nhân vật chó sói trong truyện “ Cô bé quàng khăn đỏ ” và chósói trong chuyện “ Dê con nhanh trí ” giọng của chó sói phải nhẹ nhàng, ngon ngọtđể đánh lừa cô bé và dê con. Còn chó sói trong truyện “ Chú dê đen ” lại to đanh, hung hăng hoặc Với Truyện “ Chú rùa mưu trí. ” Khi cáo nhìn thấy ếch xanh nólẩm bẩm “ Chà chà ta có một bữa điểm tâm thật là ngon đây. ” Tôi biểu lộ giọngnhư đang thì thầm. Còn khi cáo đối thoại với rùa. “ À thì ra là 1 con rùa nhãi nhéphoặc ta mà không ăn thịt được mi. ” Giọng cáo lúc đấy phải to và tỏ vẻ tức giận. Giọng của rùa lại bình tĩnh hóm hỉnh pha chút sợ sệt, vờ vịt để đánh lừa cáo. VD : Truyện “ Chú thỏ khôn khéo. ” Mặc dù Thỏ đang ở trong miệng Cá Sấunhưng giọng Thỏ vẫn bình tĩnh, không run rẩy vì Thỏ đang tìm kế để lừa Cá Sấu. Còn giọng Cá Sấu to, đắc thắng, sung sướng vì Cá Sấu sắp ăn thịt được Thỏ. Với đặc thù tăng trưởng tâm lí của trẻ ở độ tuổi này thì trong giờ kể chuyệncô giáo chỉ chú ý quan tâm đến giọng kể thôi chưa đủ mà cô giáo phải biết tích hợp với sửdụng vật dụng trực quan khôn khéo để lôi cuốn sự chú ý quan tâm của trẻ. Thật vậy vật dụng trực quan là một trong những phương tiện đi lại để truyền thụkiến thức đến với trẻ, khi nghe kể chuyện phối hợp với việc được quan sát tranh, xem múa rối. Trẻ như được bước vào quốc tế sôi động của những nhân vật đó. Chính thế cho nên trẻ rất thú vị. Nhưng vật dụng trực quan để ship hàng giờ kể chuyện có rất nhiều loại. Tuynhiên trong 1 giờ dậy tôi phải biết lựa chọn vật dụng sao cho hài hòa và hợp lý để góp phầnlàm tăng tính mê hoặc của truyện. VD : Với truyện “ Chú Rùa mưu trí. ” Tôi chọn tranh truyện động và sabàn để kể. Với tranh truyện động khi kể đến đâu nhân vật cần vận động và di chuyển đến đó theođúng nội dung truyện. VD : Khi đến đoạn Cáo “ Rón rén ” tôi chuyển dời nhân vật cáo từ từ, nhẹnhàng. Khi đến đoạn ếch nhảy xuống ao hoặc cáo lao xuống ao tôi vận động và di chuyển nhânvật ếch, cáo nhanh hơn. Hay với đoạn chú rùa rụt nguồn vào trong mai thì tôi cũngnhẹ nhàng kéo từ từ đầu rùa vào sâu trong mai. Khi đến đoạn Rùa cắn vào đuôi Cáo tôi tinh chỉnh và điều khiển cho nhân vật cáo nhẩylên như là bị đau thật hoặc đoạn Cáo lao về phía ếch Xanh và Rùa. Tôi cho nhânvật Cáo nhảy xuống nước, nước bắn lên tung tóe. Chính với cách sử dụng như vậy đã làm tăng tính mê hoặc của truyện, trẻ rấtchú ý nghe cô kể chuyện. Với việc bộc lộ giọng kể diện cảm phối hợp với việc sử dụng vật dụng trựcquan sinh động tôi nhận thấy những cháu rất hứng thú mê hồn với câu truyện cô kể vàchính nhờ sự mê hồn đó đã giúp trẻ rất nhiều trong việc hiểu nội dung truyện khắcsâu bài học kinh nghiệm ngôn từ nghệ thuật và thẩm mỹ, tăng trưởng tư duy tình cảm ở trẻ. * Biện pháp 5 : Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật tương thích với ngôn ngữlời kể sáng tạo. Để giúp trẻ tăng trưởng tối đa về việc kể chuyện sáng tạo thì điều quan trongcô giáo cần giúp trẻ biết cách biểu lộ ngôn từ của nhân vật tương thích với lời kểKhi dạy trẻ kể sáng tạo tôi đã sẵn sàng chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh sưu tầmbằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở những giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Đây làhình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kỹ năng và kiến thức vữngvàng khi thực thi kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết nhìn nhận, nhận xét về đặc thù tính cách của những nhân vật trải qua ngôn từ nói của mình. Ví dụ : Gà con xinh đẹp đáng yêu, sói già gian ác, bà tiên ông bụt thì tốtbụng còn phù thuỷ thì gian ác. Bên cạnh đó tôi còn xu thế cho trẻ quan sát những tranh chuyện, cho trẻxem qua đĩa hình những câu truyện. Đồng thời phối hợp tri giác với đàm thoại giữa côvà trẻ, giúp trẻ nhận xét nhìn nhận nội dung truyện một cách đúng mực và nói lên ýtưởng của mình qua sự nhận thức. Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời hạn thực thi một tuầnhoặc hai tuần, phối hợp lồng ghép những môn học khác, những game show để củng cố vàkhắc sâu kỹ năng và kiến thức, lan rộng ra vốn hiểu biết về quốc tế xung quanh cho trẻ. Sau đây là 1 số ít cách dạy trẻ sử dụng vật dụng trực quan. – Dạy trẻ sử dụng rối tay : Dạy trẻ sử dụng từng con một, phối hợp với lời nói, ngôn từ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động những con rối đi lại. – Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện : Chọn những tranh mà trẻ thích ghép thànhmột dải câu truyện sau đó kể từng tranh tích hợp với lời nói hướng dẫn trải qua cácnhân vật trong tranh. – Dạy trẻ ghép những nhân vật kể chuyện : Chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó ghép những nhân vật với nhau tạo thành một câu truyện theo sáng tạo độc đáo của trẻ. Qua cách dạy trẻ tôi đã triển khai tổ chức triển khai một giờ hoạt động giải trí có chủ đích kểchuyện sáng tạo, chủ điểm quốc tế động vật hoang dã như sau : Bước 1 : Hát bài “ Gà trống mèo con và cún con ”. Hỏi trẻ trong bài hát cónhững con vật nào. Bước 2 : Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo của cô, cô sử dụng rối kể 1 lần. Đàm thoại với trẻ về câu truyện của cô ( tên nhân vật, đặc thù nhân vật, đặt têncho câu truyện ). Bước 3 : Trẻ đi chọn vật dụng trực quan mà trẻ yêu dấu. Cô gợi mở ý tưởngcho trẻ bằng cách mượn một con vật mà trẻ đã chọn và kể ngắn gọn vài câu để trẻbiết cách kể chuyện sáng tạo. Bước 4 : Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá thể. Cô cho trẻ nhìn nhận vànhận xét câu truyện của bạn kể. Theo dõi cách sử dụng vật dụng trực quan của trẻđể cô góp ý nhận xét. Qua cách làm này, trong bước đầu tôi đã thành công xuất sắc trong việc triển khai dạy trẻ10kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh động sử dụng vật dụng trực quan tích hợp với ngônngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng và kiến thức tổng hợp về “ mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, tay sử dụng ”. Sau đây là một số ít câu truyện của trẻ khi triển khai kể chuyện sáng tạo. Câu chuyện “ Con lợn nhựa của tôi ” tác giả cháu Hoàng Việt Bách với đồdùng là một con lợn nhựa được cháu bộc lộ như sau : + Chủ nhật tớ được về quê thăm bà. Ở quê bà tớ nuôi một đàn lợn, những chúlợn rất to và ăn rất nhiều rau với cám. Thấy tớ thích con lợn đó, bà tớ liền mua chotớ một con lợn, nhưng đó là con lợn nhựa. Con lợn nhựa của tớ nó chẳng ăn đượcgì mà nó chỉ giúp tớ cất tiền. Đến tết ai mừng tuổi là tớ cho vào con lợn nhựa nàyđể gửi mẹ mua quần áo. Tớ rất yêu quý con lợn nhựa này của mình. Trong quy trình nghiên cứu và điều tra và thực thi kể chuyện sáng tạo đến nay ở lớptôi đã có được 1 số ít trẻ biết kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng sáng tạo của mình mà khôngcần sự gợi ý của cô. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo đồdùng trực quan về những con vật mà còn biết vận dụng sử dụng vật dụng trực quan ởcác chủ đề khác. Thông qua những câu truyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng những ngôn từ, ngắt nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình so với tác phẩm. Trẻ bắtchước giọng kể diễn cảm của cô, trẻ hoàn toàn có thể hiểu được một từ dùng với đồ vậtnày lại hoàn toàn có thể vào những vật phẩm khác nữa. Từ đó ngôn từ của trẻ tăng trưởng mạnhmẽ, vốn từ được làm giàu thêm và qua đó trẻ cảm nhận được sự nhiều mẫu mã củangôn ngữ mẹ đẻ. * Biện pháp 6 : Lồng ghép những môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sángtạo. Với lới kể diễn cảm, mê hoặc đã làm rung động người nghe, nhưng biết tíchhợp những môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm đổi khác không khí, làm thay đổitrạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bàiđồng dao, ca dao hay một số ít game show xen lẫn. Ví dụ : Bài thơ “ Thỏ bông bị ốm ” “ Ong và bướm ”, “ Cá vàng bơi ” …. hoặccho trẻ đọc thuộc những câu đố về con chó, mèo, lợn, cá, gà … hay 1 số ít bài đồngdao, ca dao “ Vè chim ”, “ Đi cầu đi quán ” …. Âm nhạc là môn hỗ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấntượng cho người xem, vì vậy tôi cho trẻ hát thuộc những bài hát : “ Thương con mèo ”, “ Một con vịt ”, “ đố biết con gì ”, “ Trời nắng trời mưa ” … giúp trẻ khi kể chuyện vềcon vật nào trẻ hoàn toàn có thể hát về những con vật đó tương thích với nội dung câu truyện. Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa những lần kể hay thay cho phần củng cố câuchuyện mà những tiết dạy thường vận dụng. Tôi cho trẻ chơi một số ít game show ở dạng độngnhư game show : Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng trời mưa, cáo và thỏ … 11V iệc tích hợp những môn học khác, những game show vào cho trẻ kể chuyện sáng tạolà việc cung ứng thêm một số ít kiến thức và kỹ năng hỗ trợ cho câu truyện sinh động hơn. Ởlứa tuổi này tâm ý của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Vì vậy vào giờ đón trả trẻtôi đưa trẻ vào góc văn học để hướng dẫn trẻ kiến thức và kỹ năng mới và củng cố kiến thứccũ. Đây là hình thức cho trẻ thưởng thức những gì mình có sẵn và học tập ở cô vàbạn, trẻ cảm thấy tự do và tự tin hơn. Việc tích hợp những môn học khác cô giáo phải linh động, lựa chọn nội dungsao cho tương thích với nội dung câu truyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động giải trí mộtcách tích cực nhất và ngôn từ của trẻ được tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ nhất. * Biện pháp 7 : Giúp trẻ mạnh dạn kể lại chuyện theo kinh nghiệm tay nghề. Kể chuyện theo kinh nghiệm tay nghề có ý nghĩa lớn so với sự tăng trưởng ngôn ngữcủa trẻ. Trẻ sử dụng ngôn từ để kể lại những việc, những sự kiện mà trẻ đã trảiqua thành một câu truyện mạch lạc mà không dùng đến vật dụng trực quan đó làviệc không hề dễ so với trẻ. Tôi thấy trẻ thường hay ngần ngại hoặc không tự tin khicô mời trẻ kể kể lại chuyện gì đó. Để giúp trẻ tự tin và mạnh dạn khi kể lại chuyệncủa mình cho người khác nghe điều quan trọng người giáo viên biết tạo tâm lýthoải mái cho trẻ khơi gợi cho trẻ kể lại một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không bắtbuộc trẻ nhất thiết phải kể khi trẻ không thích. Nhưng để kích thích trẻ kể đó là cảmột thẩm mỹ và nghệ thuật vào bài của cô giáo đồng thời khi trẻ đã kể để giúp trẻ nhớ và kểđược câu truyện của mình theo trình tự, giáo viên cần đặt câu hởi gợi ý giúp trẻnhớ lại nội dung của chuyện theo thứ tự, từ đó trẻ sẽ mạnh dạn tự tin và tự giác kểlại chuyện của mình cho người khác nghe khi có chuyện. Cứ như thế vốn từ của trẻđược giàu lên, trẻ sẽ diễn đạt ngày càng mạch lạc và giúp trẻ biết dùng câu phù hợptheo thực trạng nội dụng chuyện * Biện pháp 8 : Tuyên truyền phối hợp với cha mẹ. Như tất cả chúng ta đã thấy thiên nhiên và môi trường tiếp xúc của trẻ hầu hết là mái ấm gia đình và nhàtrường. Chính vì thế việc tích hợp giữa mái ấm gia đình và nhà trường là một biện phápkhông thể thiếu. Phụ huynh chính là tác nhân quết định trong việc tạo nguồn nhiênliệu của góc văn học để tăng trưởng ngôn từ cho trẻ. Trong cuộc họp cha mẹ đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vựcphát triển ngôn từ cho trẻ, đặc biệt quan trọng là trải qua hoạt động giải trí kể chuyện sáng tạo. Hàng tháng tuyên truyền với cha mẹ qua những biểu bảng nêu lên nội dung về chủđề, về những câu truyện sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó cha mẹ thấy được ngônngữ của trẻ tăng trưởng như thế nào và có giải pháp kích thích sự tăng trưởng ngônngữ cho trẻ tại mái ấm gia đình. Ví dụ : Cô trao đổi với cha mẹ về những câu truyện sáng tạo trẻ đã kể, nhu yếu cha mẹ về nhà cho trẻ kể lại câu truyện đó hoặc kích thích trẻ kể cáccâu chuyện khác cho mái ấm gia đình nghe. Như vậy ngôn từ của trẻ được tăng trưởng mộtcách đa dạng chủng loại và phong phú. 12H uy động cha mẹ góp phần tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhậpnhững nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo hoạ mi, vải vụn, len vụn, những vỏ hộp, mút xốp … tích hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với cha mẹ. 3. Phân tích tổng hợp rút ra bài học kinh nghiệm Kết luận khoa học. Ngành giáo dục mần nin thiếu nhi là ngành học đặc biệt quan trọng quan trọng trong sựnghiệp đào tạo và giảng dạy con người, là cơ sở hình thành và tăng trưởng con người. Chínhvì vậy là một giáo viên mần nin thiếu nhi luôn cần có phẩm chất đạo đức, lối sống, tưtưởng, lập trường vững vàng cần phải có lòng nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. Luôn tu dưỡng, trau dồi kỹ năng và kiến thức, rèn luyện kỹ năng và kiến thức phát âm chuẩn cho trẻ. Vì kỹ năng và kiến thức này đóng một vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày củatrẻ, giúp trẻ có thêm nhiều vốn từ mới làm cho kho tàng kiến thức và kỹ năng của trẻphong phú hơn. Phát triển ngôn từ cho trẻ qua những hoạt động giải trí dạy trẻ kể chuyện sáng tạolà một việc làm rất thiết yếu để đưa trẻ vào quốc tế văn học bát ngát rộng lớngóp phần hoàn thành xong nhân cách trẻ. Mỗi tất cả chúng ta cần thấy sức mạnh to lớn củatiếng nói văn học tốt đẹp, đẹp tươi và bằng cả trái tim mình đem lời nói ấygieo lên mảnh đất phì nhiêu là tâm hồn con trẻ và cũng là thiết thực nhất trongchương trình GD mần nin thiếu nhi lúc bấy giờ, để thực thi được trách nhiệm đó đòi đòihỏi cô giáo cần phải có sự sáng tạo, linh động khi dạy trẻ, phải có sự kiên trìrèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại hiệu quả cao. Qua quy trình điều tra và nghiên cứu và thực thi những giải pháp trên vào việc dạytrẻ kể chuyện sáng tạo để tăng trưởng ngôn từ cho trẻ tôi đã rút ra những bàikết luận sau : 1. Cô giáo phải biết rõ về tâm ý cũng như mặt tăng trưởng ngôn từ củatrẻ lớp mình đảm nhiệm để tìm và vận dụng những giải pháp phù hợp2. Cô giáo phải đi sâu nghiên cứu và điều tra để tạo ra được thiên nhiên và môi trường tốt cho trẻhoạt động một cách tích cực nhất, biết tạo cảm hứng cho trẻ khi kể chuyện sángtạo. 3. Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ đặt tên cho nội dung vừatrò chuyện hoặc tóm tắt ngắn gọn những điều vừa trò chuyện. 4. Khuyến khích trẻ nói những ý nghĩ của trẻ qua nội dung hay chủ điểm nàođó nhằm mục đích giúp trẻ luyện cách trình diễn, diễn đạt ý. 5. Cho trẻ thăm quan, hướng dẫn từ quan sát sự vật, hiện tượng kỳ lạ nhằm mục đích mởrộng vốn hiểu biết cho trẻ ; tích hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu thực chất của sự vật, hiện tượng kỳ lạ và nói lên nhận xét của mình. 6. Mở rộng vốn từ cho trẻ và khuyến khích trẻ sử dụng vốn từ trẻ học đượctrong những hoạt động giải trí khác nhau, đặc biệt quan trọng qua những game show ngôn từ, trò chuyện, đàm thoại giữa cô với trẻ, trẻ với trẻ. 137. Tích cực học tập, trau đồi kinh nghiệm tay nghề của chị em đồng nghiệp nhằmnâng cao thẩm mỹ và nghệ thuật lên lớp trong giờ kể chuyện. * Kết quả đạt được sau khi vận dụng đề tàiTiêu chí đánh giáTrước khi vận dụng cácbiện phápSau khi vận dụng những biệnphápSố trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệTrẻ hứng thú thamgia vào hoạt độngkể chuyện sáng tạo15 50 % 27 90 % Trẻ biết kể chuyệnsáng tạo7 23 % 15 50 % Kỷ năng sử dungngôn ngữ tronggiao tiếp và giaotiếp tự tin mạnh dạn11 36 % 25 83 % KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT1. Kết luậnSau khi thực thi những giải pháp tôi đã thu được 1 số ít tác dụng sau : 1.1. Về bản thân : – Tôi thấy mình đã nâng cao được phong thái nghệ thuật và thẩm mỹ lên lớp, giọng kểđược trau dồi diễn cảm, lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia vào tiết học. – Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm tay nghề qua cách dạy trẻ kể chuyện sángtạo, sưu tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chươngtrình. – Tạo được môi trường tự nhiên cho trẻ hoạt động giải trí tốt ở những góc, đặc biệt quan trọng là góc vănhọc. – Tôi đã tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại rốiphong phú, phong phú, sử dụng có hiệu suất cao trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. – Các tiết dạy kể chuyện sáng tạo tôi tham gia qua những tiết thao giảng dotrường tổ chức triển khai và những lời nhận xét nhìn nhận của Ban Giám Hiệu tôi đã đúc rútđược nhiều kinh nghiệm tay nghề cho mình. 1. 2. Về trẻ : – Sau thực thi trẻ đã đạt tác dụng sau : 14 + Đa phần trẻ háo hức và rất quan tâm lắng nghe từ đầu đến cuối câu truyện vìvậy trẻ hiểu nội dung câu truyện và kể lại câu truyện bằng ngôn từ và sự sángtạo của trẻ. 1.3. Về vật dụng trực quan : – Xây dựng một góc tuyên truyền về những câu truyện sáng tạo của cô của trẻđa dạng, đa dạng chủng loại. – Làm những bộ truyện tranh chữ to. – Sưu tầm rất nhiều tranh vẽ theo từng chủ điểm cho trẻ kể chuyện. – Làm những con rối dẹt và một số ít con rối tay cho trẻ hoạt động giải trí ở mỗi chủđiểm. – Làm một số ít con rối tay cho cô hoạt động giải trí. – Có một mảng tường mở cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo. 1.4. Về cha mẹ : – Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo đểphát triện ngôn từ cho trẻ. – Đóng góp về kinh phí đầu tư và nhiều vật tư để tạo góc văn học cho lớp, làmcác vật dụng ship hàng cho việc dạy và học. – Phụ huynh hiểu được rõ hơn về nội dung chương trình học của trườngmầm non2. Đề xuất – Sau khi vận dụng những biện phát trên bản thân tối thấy môi trường tự nhiên để trẻ đượctrải nghiệm về hoạt động giải trí ngôn từ là còn ít, đặc biệt quan trọng mô hình vườn cổ tích chưamấy trường có, để giúp trẻ có được môi trường tự nhiên văn học cụ thể thiết kế xây dựng đượcvườn cổ tích tôi xin yêu cầu với phòng giáo dục hổ trợ thêm kinh phí đầu tư cho cáctrường mần nin thiếu nhi xây được vườn cổ tích tạo điều kiện kèm theo cho trẻ được làm quen vănhọc ở một hình thức tự do nhất nhằm mục đích làm tăng năng lực cảm thụ văn học vàphát triển ngôn từ một cách tối đa nhất. Trên đây là 1 số ít kinh nghiệm tay nghề “ 1 số ít hình thức kể chuyện sáng tạo giúpphát triển ngôn từ cho trẻ 5 tuổi ” Tôi Xin chân thành cảm ơn ! 1516

Source: https://dvn.com.vn
Category: Công Nghệ

Liên kết:XSTD
Alternate Text Gọi ngay