Những bài hát thiếu nhi nghe qua có vẻ khó hiểu và ngớ ngẩn nhưng lại có nguồn gốc sâu xa phía sau

1. Mary Had A Little Lamb

Bài hát khởi đầu được viết bởi John Roulstone và Mary ở đây chính là Mary Sawyer Tyler, sống ở Sterling, Massachusetts. Theo lời kể của Mary, khi còn bé bà hay dắt theo một chú cừu khi đi học, và điều này lôi cuốn sự quan tâm của John Roulstone cháu ông mục sư Reverend Lemuel Capen. Ông đến trường để học với cậu mình trước khi vào ĐH. Chứng kiến câu truyện đáng yêu và dễ thương, hôm sau ông cưỡi ngựa đến trường và đưa cho bà mẩu giấy viết lời 3 câu gốc của bài thơ .

Mary had a little lamb ,

little lamb, little lamb,

Mary had a little lamb, its fleece was white as snow .

5673293 138711343587Phiên bản tân tiến về sau được viết thêm bởi Sarah Josepha Hale năm 1830, vốn không trẻ thơ như khởi đầu. Mary mất năm 1889 và được chôn cất ở Boston, ngôi nhà nơi bà từng ở với chú cừu nhỏ cũng bị hủy hoại từ lâu .
maryandlambpostcard

3385599715 4e07f611e2

2. London Bridge Is Falling Down

London Bridge is falling down ,
Falling down, Falling down .
London Bridge is falling down ,
My fair lady .

” Cầu London bị sập ” vốn đã rất quen thuộc với mần nin thiếu nhi và cả người lớn, thậm chí còn thông dụng ở những vương quốc không nói tiếng Anh, nhưng có rất nhiều giả thiết vây quanh ý nghĩa bài hát tưởng chừng vô hại này .
London Bridge Is Falling Down có vẻ như như đang miêu tả game show trẻ con tương tự như như trò ” Thiên đàng âm ti ” của trẻ nhỏ Nước Ta : 2 đứa trẻ được chọn nắm tay nhau nâng lên thành hình vòng cung như chiếc cầu và đọc một bài đồng dao, những đứa trẻ khác rồng rắn đi qua ” chiếc cầu ” đó, khi bài đồng dao kết thúc thì ” chiếc cầu ” sập xuống bắt một đứa trẻ .

64385260

Nhưng theo nhà nghiên cứu và điều tra văn học dân gian Alice Gomme, bài hát này không đơn thuần là một game show : có vẻ như nó đang thuật lại nghi thức Pagan thời xưa, chôn sống một đứa trẻ vào trong một cây cầu để trấn yểm cho cầu không bị sập .

1200px die eingemauerte nonne

Tương tự, còn có giả thiết bài hát nói về ” hầm mộ sống ” : nhốt một người vào hốc có sẵn rồi xây gạch lấp kín lại, người bị nhốt chết dần mòn vì đói khát, hình thức này còn hung tàn hơn chôn sống vì ít ra chết ngạt còn nhanh hơn. Người xưa tin rằng nghi thức này giúp những tòa nhà được trấn yểm vững chãi hơn .
Nghe có vẻ như khó tin như truyền thuyết thần thoại nhưng đã có những trường hợp ghi chép lại trong The Walled-Up Wife : A Casebook, người ta khai thác được ở những tòa nhà cũ ( gồm có cả nhà thời thánh và tối thiểu một cây cầu ) khắp châu Âu có xác người bên trong những bức tường. Họ còn đồn rằng đầu của người Vikings Ivar the Boneless cũng được chôn ở Northumbia để phù hộ cho nơi này không bị Vikings xâm lược nữa .
Sau này ai nói với bạn rằng bài hát miêu tả trận đánh của người Vikings thì hãy bác bỏ đi vì sử sách ghi chép lại không hề có trận đánh nào như vậy, những chuyện kể trên li kì hơn .

3. Eenie, Meenie, Miney, Mo

Bài này thường được dùng trong những game show tương tự như ” Chi chi chành chành ” của Nước Ta. Lời tiếng Anh hẳn được phổ cập đến tất cả chúng ta trải qua bài hát của Justin Bieber. Thế nhưng bản tiếng Anh rất đầy đủ là thế này :

” Eenie, meenie, minie mo .
Catch an nigger by the toe .
If he hollers, let him go .
Eenie, meenie, minie mo. ”
( Eenie, meenie, minie mo. Bắt thằng mọi thì nắm vào chân. Nếu nó la thì thả nó ra. )

Những từ phân biệt chủng tộc như ” nigger “, ” negro ” về sau đã được bỏ đi và thay bằng ” tiger “. Khúc đồng dao bắt nguồn từ hoạt động giải trí kinh doanh nô lệ thời xưa, những chủ buôn da trắng thường lẩm bẩm câu này mỗi khi bắt được nô lệ chạy trốn .
Năm 2004, đã xảy ra vụ kiện giữa những hành khách da đen với hãng hàng không bởi tiếp viên sử dụng ” Eenie, Meenie ” để giục họ chuyển dời. Đương nhiên tòa đã bác đơn của họ .

4. Alouette

Bài hát này quen thuộc với những bạn trẻ Nước Ta với tên ” Chú chim Alouette “, lời Việt đáng yêu và dễ thương trong sáng : ” Alouette đáng yêu và dễ thương lại đây với ta nào. Alouette đáng yêu và dễ thương lại đây với ta. Nào mình cùng đùa vui như chim. Chim líu lo dưới ánh mặt trời … ” Thế nhưng có mấy ai biết lời tiếng Pháp của bài hát lại nói về việc nhổ lông chú chim tội nghiệp, nhổ cho tới khi trụi thì thôi .

Little skylark, lovely little skylark
Little lark, I’ll pluck your feathers off
I’ll pluck the feathers off your head.
I’ll pluck the feathers off your beak.
I’ll pluck the feathers off your eyes.
I’ll pluck the feathers off your neck.
I’ll pluck the feathers off your wings.
I’ll pluck the feathers off your feet.
I’ll pluck the feathers off your tail.
I’ll pluck the feathers off your back.

Hãy cẩn trọng với những nhóc biết tiếng Pháp nhưng cứ thú vị hát bài này nhé .

5. Oh My Darling, Clementine

Tại sao người ta lại viết nên bài hát cho trẻ con với nội dung buồn như vậy ? Ở cả lời tiếng Việt lẫn Anh, bài hát đều nói về nỗi đau của người cha là thợ mỏ mất đi con gái yêu quý Clementine. Bài hát có nhiều phiên bản, có bản thì Clementine mất tích, bản được biết đến thoáng rộng hơn là Clementine bị chết đuối .
Nhưng điều đáng sợ hơn là Clementine chết đuối trước mắt cha mình. Vì không biết bơi nên ông đành bất lực nhìn con gái chìm dần xuống, đã vậy khổ 3 bài hát còn miêu tả kỹ hơn hình dáng của em khi sắp chết :

Ruby lips above the water, (Môi hồng bập bồng trên sóng)
Blowing bubbles, soft and fine, (Phập phồng bong nóng, người mềm oặt)
But, alas, I was no swimmer, (Nhưng than ôi tôi nào bơi được)
So I lost my Clementine. (Nên tôi mất Clementine của tôi)

6. Rock-a-bye Baby

Thành thực mà nói, chẳng ai lại đi viết bài hát ru mà trong đó có câu : ” Khi gió thổi cành cây đung đưa. Cành cây gãy, cả nôi và bé cùng rơi xuống ” .
1200px james ii by peter lelyBài hát được cho là đang đề cập đến con trai của vua James VII ( ở Scotland và là James II của Anh – Ireland ), vốn được cho là bị đánh cắp từ nơi khác đến làm con nối dõi cho James .
” Cơn gió ” ở đây hoàn toàn có thể là William of Orange, cháu của James đến lật đổ ông cùng con trai, ” cái nôi ” ám chỉ Nhà Stuart ở Scotland. Khi bài hát được in phát hành còn có chú thích bên dưới ” Đây là bài hát nói về Kiêu hãnh và Tham vọng, trèo cao thì ngã đau “, với ý mỉa mai câu truyện nhà vua .

etsy

Cũng có giả thiết cho rằng bài hát nói về nghi thức mê tín dị đoan từ thế kỷ 17, người phụ nữ có con chết ngay từ khi lọt lòng sẽ đặt em bé vào nôi và treo lên cành cây, chờ xem nó có sống lại không. Lời bài hát cho thấy khi đã chết rồi thì con người trở nên nặng hơn nên sức nặng của em bé cành cây không đỡ nổi và gãy .

7. Jimmy Crack Corn

Jimmy Crack Corn là bài hát về người nô lệ ăn mừng vì chủ mình chết, xuất phát từ những gánh hát rong ( những gánh hát này chuyên hát những bài của dân da đen ) .

2 15

Vở diễn có nội dung khá rõ ràng : con ngựa của người chủ bị chuồn chuồn đuôi xanh cắn, nó phát rồ lên và hất người chủ ngã chết. Người nô lệ ( được đóng bởi diễn viên da trắng nhưng bôi đen mặt còn môi thì đỏ một cách lố bịch ) vui mừng đi làm rượu bắp ( jim crack corn – loại rượu rẻ tiền ) vì trên đời lại bớt đi một gã chủ da trắng .

Jimmy crack corn I don’t care, ( x3 )
Jimmy crack corn I don’t care, ‘ cause my master gone away

8. Here We Go Round The Mulberry Bush

Ban đầu có vẻ lời bài hát đang dạy trẻ nhỏ cách hàng xử như lau sàn, rửa mặt, đi nhà thời thánh buổi sáng. Nhưng thật ra những người tạo cảm hứng cho bài hát này không phải bậc cha mẹ nổi bật, bởi bài hát bắt nguồn từ Wakefield Prison – nhà tù dành cho phụ nữ từ thế kỷ 18 .
Vào thời đó con cháu cũng sẽ bị nhốt vào tù chung với người mẹ tội lỗi của họ hoặc bị chôn sống, thế kỷ 18 có vẻ như không khoan dung với trẻ con lắm .

326150428

Nhà tù Wakefield được miêu tả chính thức trong ghi chép năm 1744 : ” Nhà tù này không may được thiết kế xây dựng trên nền đất thấp, vì thế nó khí ẩm và hay bị ngập. Một nhà tù trên mặt đất quá thấp thì tù nhân luôn chật vật cố giữ vệ sinh thật sạch ” .
Thế nên lời bài hát nói về việc ” chải tóc “, ” lau mặt “, ” chà sàn ” chính là những người mẹ dạy con họ cách sống sót trong nhà tù. Here We Go Round The Mulberry Bush là thói quen của tù nhân dắt con mình đi vòng quanh bụi dâu tằm trong sân mỗi khi tập thể dục .

9. Baa Baa Black Sheep

Baa, baa, black sheep ,
Have you any wool ?
Yes, sir, yes, sir ,
Three bags full ;
One for the master ,
And one for the dame ,
And one for the little boy
Who lives down the lane

Lời bài hát đã được biến hóa ở thời điển hiện tại cho vui tươi tương thích với trẻ con, thật ra đoạn cuối bài hát vốn là “ And none for the little boy who cries down the lane. ” ( Và không còn gì cho cậu bé ngồi khóc bên đường ) được lưu truyền cuối thế kỷ 16 .
Anh Quốc thời trung cổ xem trọng ngành công nghiệp sản xuất lông cừu vốn có nhu yếu rất lớn, từ người nông dân thông thường đến chủ đất phong phú đều nuôi cừu. Sự giàu sang của những chủ đất được đong đếm bằng số cừu họ chiếm hữu – có khi lên đến 8.000 con, nhu yếu một lượng lớn nhân lực chăm nom ngày đêm .

701563589

Sau khi trở lại từ thập tự chinh vào năm 1272, Vua Edward I đã vận dụng thuế mới cho việc kinh doanh len để chi trả cho những cuộc viễn chinh của mình. Các nhà nghiên cứu tin rằng thuế len này là nền tảng cho bài hát .
Một phần ba giá của mỗi túi, hoặc bao tải len được bán là cho nhà vua ( master ) ; một phần ba đến những tu viện, hoặc nhà thời thánh ( the dame ) ; và không ai cho người chăn cừu nghèo làm thuê ( the little boy who cries down the lane ), những người đã không stress chăm nom và bảo vệ đàn cừu .

10. Solomon Grundy

Solomon Grundy,
Born on a Monday, (Sinh ra vào thứ Hai)
Christened on Tuesday, (Rửa tội vào thứ Ba)
Married on Wednesday, (Cưới ngày thứ Tư)
Took ill on Thursday, (Ngã bệnh thứ Năm)
Grew worse on Friday, (Trở nặng thứ Sáu)
Died on Saturday, (Từ trần hôm thứ Bảy)
Buried on Sunday, (Hạ huyệt Chủ Nhật)
That was the end, (Và đó là cái kết)
Of Solomon Grundy. (Của Solomon Grundy)

Là fan của truyện tranh DC thì bạn sẽ thấy cái tên Solomon Grundy này rất quen hoặc đã chơi game Arkham Knight thì hẳn bạn đã biết đến bài đồng dao này .
Bộ phim The Accountant do Ben Affleck thủ vai chính năm năm nay cũng liên tục lặp đi lặp lại bởi nhân vật chính bị tự kỷ – cậu thường đọc bài đồng dao để lấy lại bình tĩnh .

Bài hát được ghi âm lần đầu năm 1842 bởi nhà tích lũy truyện cổ tích và nhạc dân gian James Orchard Halliwell-Phillipps. Sau đó, nó được dịch sang tiếng Pháp, Đức, Ý, và trở thành công cụ dạy trẻ nhỏ biết ngày trong tuần .
Ngoài ra Solomon Grundy còn trở thành ông kẹ, dùng để hù dọa trẻ hư. Vẫn không ai biết thực hư cái tên Solomon Grundy từ đâu ra, hoàn toàn có thể chỉ là tác giả đặt tên cho vui vậy thôi .
Từ nay mỗi khi bật YouTube định mở một bài hát nào cho con trẻ tất cả chúng ta, hẳn bạn phải nghĩ lại một chút ít. Hoặc khi đứa trẻ tò mò nào hỏi về ý nghĩa bài hát, bạn sẽ phải vò đầu bứt tóc chút ít để tìm cách giải thích hợp lý hợp tuổi đấy .

Source: https://dvn.com.vn
Category : Darling

Alternate Text Gọi ngay