Đại học Quốc gia Seoul – Wikipedia tiếng Việt

Đại học Quốc gia Seoul trên bản đồ SeoulSNUSNU Seoul.Khuôn viên chính ở Gwanak-gu

Đại học Quốc gia Seoul (tiếng Hàn: 서울대학교, Hán tự: 서울大學校, phép biểu ký chữ La Mã: Seoul Daehakgyo) là một trường đại học kiêm viện nghiên cứu quốc lập ở thủ đô Seoul, Hàn Quốc.

Được thành lập vào ngày 27 tháng 8 năm 1946, Seoul là một trong ba đại học danh giá bậc nhất tại Hàn Quốc (nhóm SKY) cùng với các trường Đại học Cao Ly và Yonsei.[6] Trường có ba khuôn viên là khuôn viên chính ở Gwanak-gu và hai hiệu viên phụ lần lượt đặt ở Daehak-ro, Pyeongchang cũng như bao gồm 16 học viện, một trường nghiên cứu và 9 trường chuyên ngành khác. Đoàn thể học sinh có gần 17,000 sinh viên bản khóa và 11,000 sinh viên nghiên cứu (theo số liệu thống kê của năm 2011). Theo dữ liệu của Viện nghiên cứu Phát triển Giáo dục Hàn Quốc, trường Seoul chi cho mỗi sinh viên nhiều hơn bất kỳ đại học nào khác trong nước có ít nhất 10,000 người (thống kê cũng trong năm 2011).[7]

Trường Đại học Quốc gia Seoul có hiệp nghị với hơn 700 cơ sở học thuật và tổ chức triển khai quốc tế tại hơn 40 vương quốc, [ 8 ] tiêu biểu vượt trội như : Ngân hàng Thế giới [ 9 ], Đại học Pennsylvania, [ 10 ] Đại học Washington ở St. Louis. [ 10 ] Học viện kinh doanh thương mại có khóa trình lưỡng bằng thạc sĩ cùng Đại học Duke, Trường Kinh doanh ESSEC ( Pháp ), Đại học Hitotsubashi ( Nhật Bản ) và Đại học Yale, [ 11 ] khóa trình trao đổi quản trị kinh doanh thương mại, khoa học và tiến sỹ với những ĐH ở mười nước trên 4 lục địa khác nhau. [ 12 ] Theo nhu yếu toàn thế giới hóa ĐH của chính phủ nước nhà Nước Hàn, số giáo sư quốc tế đạt đỉnh 242 người hay 4 % tổng số năm 2010, nhưng sau giảm. [ 13 ]Trường Đại học Quốc gia Seoul, đơn cử là học viện chuyên nghành văn khoa bản khóa bắt nguồn từ những gì còn sót lại của Đại học Đế quốc Kinh Thành – là một trong những ĐH mà Đế quốc Nhật Bản từng xây dựng thời kỳ chiếm đóng bán đảo Triều Tiên. Trong thập niên 40, theo Điều lệ Quân sự số 102 của Sảnh quân chính Bộ tư lệnh Lục quân Mỹ ở Triều Tiên, Kinh Thành phải dẹp đi, sau đó, chính phủ nước nhà Nước Hàn lâm thời hợp nhất số gia tài còn sót lại cùng với chín học viện chuyên nghành và những trường chuyên ngành khác. Tài sản sót lại của Đại học Keijo hợp nhất với Trường công nghiệp Gyeongseong, Trường khai khoáng Gyeongseong, Trường Y Gyeongseong, Trường nông nghiệp Suwon, Trường kinh tế tài chính học Gyeongseong, Trường Y học nha khoa Gyeongseong, Trường sư phạm Gyeongseong và Trường sư phạm phụ nữ Gyeongseong thành Trường Đại học Quốc gia Seoul. Cơ quan tổng hợp đặt lên lại làm Trường Đại học Quốc gia Seoul theo Luật Trường Đại học Quốc gia Seoul do Quốc hội Nước Hàn trải qua .

Trước xây dựng[sửa|sửa mã nguồn]

Trường Đại học Quốc gia Seoul bắt nguồn từ những cơ sở giáo dục Vua Cao Tông Nhà Triều Tiên xây dựng, có vài đã sát nhập vào những học viện chuyên nghành khi trường xây dựng sau .

Để hiện đại hóa đất nước, Cao Tông bắt đầu thành lập các cơ sở giáo dục cao đẳng, bằng hoàng lệnh học viện pháp luật Beopkwan Yangseongso thành lập năm 1895, có 209 sinh viên tốt nghiệp bao gồm Lý Tuấn. Hanseong Sabeomhakgyo năm 1895 là trường sư phạm và Euihakkyo năm 1899 là trường y cũng coi là nền móng của các học viện sau này.

Sau khi Đế quốc Đại Hàn sáng lập năm 1897, Cao Tông có động lực lập thêm các cơ sở giáo dục, năm 1899 trường y khai sinh, tên đổi vài lần thành Daehan Euiwon GyoyukbuGyeongseong Euihak Jeonmunhakgyo (Học viện Y học Kinh Thành), cuối cùng định làm Học viện Y học Trường Đại học Quốc gia Seoul. Năm 1901, có phân khoa điều dưỡng thành lập, tiền thân của Học viện Điều dưỡng sau này.

Trong thời Nhật trị, Đại học Đế quốc Kinh Thành thiết lập làm một trong chín đại học đế quốc của Nhật Bản. Sau Thế chiến thứ hai và Triều Tiên độc lập, tên trường đổi từ Keijō Teikoku Daigaku (京城帝国大学) thành Gyeongseong Daehak (경성대학, 京城大學, Đại học Kinh Thành). Các Hán tự dùng trong tên có phát âm khi đọc tiếng Hàn và tính từ “Đế quốc” thì bị loại bỏ. Việc lấy tên “Quốc lập” dựa trên phong trào dân tộc học thuật có chính quyền quân sự Mỹ ở Triều Tiên đương thời ủng hộ.

Trường Đại học Quốc gia Seoul xây dựng ngày 27 tháng 8 năm 1946 khi mười cơ sở giáo dục cao đẳng quanh khu vực Seoul hợp nhất, là :

  • Trường đại học Gyeongseong (Gyeongseong Daehakgyo, 경성대학교)
  • Học hiệu Sư phạm Gyeongseong (Gyeongseong Sabeomhakgyo, 경성사범학교)
  • Học hiệu Sư phạm Phụ nữ Gyeongseong (Gyeongseong Yeoja Sabeomhakgyo, 경성여자사범학교)
  • Trường nghề Pháp học Gyeongseong (Gyeongseong Beophak Jeonmunhakgyo, 경성법학전문학교)
  • Trường nghề Công nghiệp Gyeongseong (Gyeongseong Gongeop Jeonmunhakgyo, 경성공업전문학교)
  • Trường nghề Mỏ Gyeongseong (Gyeongseong Gwangsan Jeonmunhakgyo, 경성광산전문학교)
  • Trường nghề Y học Gyeongseong (Gyeongseong Euihak Jeonmunhakgyo, 경성의학전문학교)
  • Trường nghề Nông lâm Suwon (Suwon Nongnim Jeonmunhakgyo, 수원농림전문학교)
  • Trường nghề Kinh tế Gyeongseong (Gyeongseong Gyeongje Jeonmunhakgyo, 경성경제전문학교)
  • Trường nghề Y học Nha khoa Gyeongseong (Gyeongseong Chigwa Euihak Jeonmunhakgyo, 경성치과의학전문학교)

Hiệu trưởng tiên phong là Harry Bidwell Ansted. [ 14 ] Trong hơn một năm rưỡi, có trào lưu biểu tình do sinh viên cùng giáo sư khởi xướng chống luật hợp nhất những học viện chuyên nghành của chính quyền sở tại quân sự chiến lược Mỹ ở Triều Tiên. Có 320 giáo sư bị sa thải và hơn 4,950 sinh viên rời trường. Hiệu trưởng thứ hai là Lý Xuân Hạo ( 이춘호, 李春昊 ), khởi đầu thao tác tháng 10 năm 1947 .Trường nghề Pháp học xây dựng khi luật khoa Đại học Đế quốc Kinh Thành hợp với Học viện Pháp luật Kinh Thành. Trường sát nhập Học viện Dược Seoul tháng 9 năm 1950 làm Trường nghề Dược, trước là cơ sở tư lập. [ 15 ]Trong Chiến tranh Triều Tiên, trường bị Bắc Hàn chiếm đóng và Cuộc thảm sát Bệnh viện Trường ĐH Quốc lập Seoul diễn ra, [ 16 ] bấy giờ trong thời điểm tạm thời hợp với những ĐH khác ở Nước Hàn, tại Busan .
Ban đầu, khuôn viên chính ( có Học viện Nhân văn Khoa học và Trường nghề Pháp học ) nằm ở Dongsung-dong, Jongno-gu, sau khi có khuôn viên mới xây ở Gwanak-gu tháng 2 năm 1975, hầu hết những trường của ĐH đều dời về giữa năm 1975 và năm 1979. Một phần của khuôn viên cũ, Trường nghề Y học, Trường nghề Y học Nha khoa và Trường nghề liên tục dùng, giờ đây lấy tên Khuôn viên Yeongeon .Năm 2012, những nhà lập pháp cho biết Đảng Nước Hàn Tự do cầm quyền trước cuộc bầu cử tổng thống 2012 trang nghiêm ý kiến đề nghị kế hoạch dời trường về Thành phố Thế Tông mới xây dựng, [ 17 ] một phần nỗ lực phân cấp cơ cấu tổ chức cơ quan chính phủ TP. hà Nội. Ban đầu chính phủ nước nhà vương quốc hỏi trường năm 2009 đảm nhiệm thiết kế xây dựng khuôn viên phụ, [ 18 ] [ 19 ] có báo năm sau rằng trường đã xem xét không tham gia kế hoạch Thế Tông. [ 20 ]
Nhập học vào Trường Đại học Quốc gia Seoul cực kỳ cạnh tranh đối đầu, từ năm 1981 đến 1987 khi chỉ được xin vào một trường một lần, hơn 80 % của 0.5 % thí sinh đạt điểm cao nhất trong bài kiểm tra chính phủ nước nhà tổ chức triển khai hằng năm xin vào, nhiều người không thành công xuất sắc .Trường có 16 học viện chuyên nghành phân phối 83 khóa trình bằng cử nhân, [ 21 ] với khóa trình thạc sĩ, tiến sỹ có một trường nghiên cứu cấp 99 khóa trình trong năm nghành học tập. Các chương trình liên khóa do hơn hai phân khoa làm và chủ yếu. [ 22 ] Ngoài ra có chín trường nghề. [ 23 ]

  • Học viện Nhân văn
  • Học viện Khoa học xã hội
  • Học viện Quản lý thương nghiệp
  • Học viện Sư phạm
  • Học viện Mỹ thuật
  • Học viện Giáo dục thông thức
  • Học viện Sinh thái nhân loại
  • Học viện Âm nhạc
  • Học viện Kỹ thuật
  • Học viện Khoa học tự nhiên
  • Học viện Nông nghiệp & Khoa học đời sống
  • Học viện Y học
  • Học viện Điều dưỡng
  • Học viện Dược
  • Học viện Thú y

Cổng trường vào mùa đông
Trường Đại học Quốc gia Seoul hai khuôn viên tại Seoul, một tại Pyeongchang : Khuôn viên Gwanak nằm ở số 1 Gwanak-ro, Gwanak-gu, Khuôn viên Yongon nằm phía bắc Sông Hán ở Daehangno, Jongno-gu, khuôn viên Pyeongchang mới thì ở Pyeongchang, Gangwon .
Khuôn viên Gwanak chính nằm ở khu phía nam Seoul, có trạm tàu điện ngầm riêng trên Tuyến số 2. Khuôn viên Yeongeon là hiệu viên y ở trên Daehangno, hướng đông bắc Seoul. Khuôn viên Suwon là viên nông nghiệp cũ, cũng gọi là Khuôn viên Sangnok, từng nằm ở Suwon 40 km phía nam Seoul, dời về Gwanak mùa thu năm 2004, nhưng vài cơ sở điều tra và nghiên cứu vẫn còn lại .

Cơ sở mới[sửa|sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 2010, Trường Đại học Quốc gia Seoul ký hiệp định với thị trưởng thành phố Siheung và tỉnh trưởng Gyeonggi lấy trợ giúp hành chính để kiến thiết xây dựng khuôn viên toàn thế giới, được 826,000 m² ( 204 mẫu Anh ) đất đai ở khu vực kinh tế tài chính bờ tây, gần Khu đô thị mới Songdo, cảng Pyeongtaek, Sân bay quốc tế, Cảng Incheon. [ 24 ]Kích cỡ ĐH sẽ tăng hơn 58 % so với diện tich 1.4 triệu m² ( 350 mẫu Anh ) đang có thành 2.2 triệu m² ( 550 mẫu Anh ), số đầu người tăng 10,000 hay 33 % số lượng hiện tại. [ 25 ] Cùng với những hội trường và những khóa trình văn khoa, điều tra và nghiên cứu, dự án Bất Động Sản sẽ thêm một cơ sở y học gồm có bệnh viện điều tra và nghiên cứu và TT bồi huấn, điều tra và nghiên cứu nha khoa và dược lý lâm sàng, ký túc xá, căn hộ chung cư cao cấp, trường trung học quốc tế và những cơ sở khác. Đại học dự trù mở khuôn viên quốc tế năm năm trước và sẽ có những cơ sở quốc lập địa phương khác tham gia dự án Bất Động Sản. [ 26 ]

Cơ sở vật chất[sửa|sửa mã nguồn]

Thư viện Trường Đại học Quốc gia Seoul [ 27 ] nằm sau tòa quản trị ĐH, ở khu thứ 52 Khuôn viên Gwanak. Năm 2009, bộ sưu tập sách vở gồm cả tất mọi phụ lục có bốn triệu cuốn. Tiến sĩ Kim Jong-seo là giáo sư tôn giáo học ở Học viện Nhân văn nhậm chức thủ thư năm 2009 .Thư viện TW đã xây dựng thư viện số được cho phép tra cứu ấn bản ĐH, văn kiện cổ xưa và những luận án ngoài thư viện thường, có hình ảnh sách nhỏ, bài trình chiếu diễn thuyết và côn trùng nhỏ. Thư viện số được cho phép truy vấn phim những cuộc triển lãm của trường, sự kiện khoa học, hội nghị chuyên đề và hội thảo chiến lược .Thư viện mở năm 1946, lấy tên Thư viện TW Trường Đại học Quốc gia Seoul, dùng cơ sở vật chất và sách vở của Đại học Kyungsung, năm 1949 đổi thành Lầu phụ Thư viện Trường Đại học Quốc gia Seoul. Khi nhánh chính của thư viện dời về Khuôn viên Gwanak tháng 1 năm 1975 thì đặt tên Thư viện Trường Đại học Quốc gia Seoul, năm 1992 đổi một lần nữa trở lại Thư viện TW Trường Đại học Quốc gia Seoul .

Năm 1966, bộ sưu tập của thư viện bắt đầu hệ thống hóa, ban đầu sắp xếp thành 12 phụ lục cho mỗi học viện, là kỹ thuật, sư phạm, vật lý, nghệ thuật, pháp học, dược lý, âm nhạc, y học, nha khoa, hành chính và khoa học nông nghiệp. Hai năm sau có thêm thư quán cho báo chí và văn khóa, đem tổng số phụ lục lên 14. Tuy nhiên, khi nhánh chính dời về Khuôn viên Gwanak, sư phạm, vật lý, pháp học, thần học, hành chính, báo chí, văn khoa và dược lý hợp nhất thành một tòa duy nhất.

Khuê chương những[sửa|sửa mã nguồn]

Tài liệu lịch sử ở Khuê chương các Lưu trữ

Khuê chương các là thư viện hoàng gia của Nhà Triều Tiên, thành lập năm 1776 theo lệnh của Triều Tiên Chính Tổ, bấy giờ nằm tại Changdeokgung. Hiện tại lấy tên Thư viện hoàng gia Khuê chương các hay Cục lưu trữ Khuê chương các và do Viện nghiên cứu Hàn Quốc học Khuê chương các[28] (규장각한국학연구원, Gyujanggak-Hangukhak-Yeonguwon) quản lý tại Trường Đại học Quốc gia Seoul làm kho tài liệu then chốt của tài liệu lịch sử Triều Tiên và trung tâm nghiên cứu, xuất bản tạp chí hàng năm Khuê chương các.[29]

Viện kho lưu trữ bảo tàng[sửa|sửa mã nguồn]

Viện kho lưu trữ bảo tàng Trường Đại học Quốc gia Seoul [ 30 ] nằm trên Khuôn viên Gwanak, mở cùng trường năm 1946 lấy tên ” Lầu phụ Viện bảo tàng Trường Đại học Quốc gia Seoul. ” Tòa nhà Dongsung-dong hai tầng bắt đầu xây năm 1941 làm Viện bảo tàng Đại học đế quốc Kyúngung trước khi chuyển Đại học Quốc gia Seoul. Khi viện kho lưu trữ bảo tàng dời lên tầng sáu Thư viện TW năm 1975 thì lấy tên Viện bảo tàng Trường Đại học Quốc gia Seoul, sau chuyển sang cơ sở mới xây cạnh Tòa nhà Dongwon năm 1993, tọa lạc tới hiện tại. Tiến sĩ Park Nak-gyu là viện trưởng .

Viện kho lưu trữ bảo tàng nghệ thuật và thẩm mỹ[sửa|sửa mã nguồn]

Tòa nhà mới của Viện bảo tàng Nghệ thuật
Viện kho lưu trữ bảo tàng Nghệ thuật Trường Đại học Quốc gia Seoul xây dựng năm 1995 có Quỹ văn hóa truyền thống Samsung hỗ trợ vốn, theo đề xuất từ Tiến sĩ Lee Jong-sang là giáo sư Nghệ thuật phương Đông. Tòa nhà do kiến trúc sư Hà Lan Rem Koolhaas phong cách thiết kế, Samsung đảm nhiệm thiết kế xây dựng. Cấu trúc 4,450 mét vuông ( 47,900 ft2 ) nằm ba tầng trên và dưới mặt đất, có đặc thù quan trọng là khu vực phía trước đúc hẫng khỏi mặt đất. Xây dựng thực thi từ năm 2003 đến 2005, mở bán khai trương ngày 8 tháng 6 năm 2006. Tiến sĩ Jung Hung-min nhậm chức viện trưởng năm 2006. [ 31 ]

Ký túc xá[sửa|sửa mã nguồn]

Hơn 1,300 phòng ký túc xá ở Gwanaksa mới được cải tạo từ tháng 9 năm 2010.
Ký túc xá của Trường Đại học Quốc gia Seoul tên là Gwanaksa [ 32 ] ( 관악사 ), cho sinh viên bản khóa lẫn nghiên cứu và điều tra và mái ấm gia đình đều nằm tại đây, xây tháng 8 năm 1975 làm năm tòa Gwanaksa và một tòa phúc lợi chứa được 970 nam sinh viên. Ký túc xá nữ xây thang 2 năm 1983. Đến tháng 6 năm 2007, có một tòa quản trị, hai tòa phúc lợi, 12 tòa ký túc xá sinh viên bản khóa, sáu cho sinh viên điều tra và nghiên cứu, tổng số chứa 3,680 sinh viên. Khác với những ký túc xá khác ở Nước Hàn, không hề có giờ giới nghiêm ở Đại học Quốc gia Seoul .Yeongeonsa nằm tại khuôn viên Yeongeon là trường y của Trường Đại học Quốc gia Seoul, chứa được 533 sinh viên bản khóa và 17 mái ấm gia đình .

Tân văn Đại học

[sửa|sửa mã nguồn]

Tòa biên tập của tờ báo sinh viên

Tân văn Đại học[33] (대학신문, Daehak-Sinmun) là tờ báo sinh viên của Trường Đại học Quốc gia Seoul, xuất bản lần đầu tiên ngày 4 tháng 2 năm 1952 trong khi tị nạn tránh tàn phá của Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1953 dời về Dongsung-dong ở Seoul là nơi từ năm 1958 thậm chí ấn bản cho trung học còn xuất bản. Khó khăn tài chính năm 1960 khiến tờ phải đình bản một thời gian. Năm 1975, tờ chuyển đến Khuôn viên Gwanak, nơi xuất bản liên tục cho đến hiện tại.[34] Khi ra mắt bán 500 won một bản, đôi khi hai lần một tuần, bây giời thì phân phát miễn phí mỗi thứ Hai. Tờ báo không xuất bản trong các kỳ nghỉ hoặc kỳ thi.

Danh tiếng và thứ hạng[sửa|sửa mã nguồn]

Bài điều tra và nghiên cứu của KEDI cho thấy tên tuổi của trường biến thành lương bổng cao 12 % hơn so với bất kể ĐH Nước Hàn nào khác. [ 35 ] Sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học Quốc gia Seoul chi phối giới học thuật, chính phủ nước nhà, chính giới và kinh doanh thương mại, cứ bốn hiệu trưởng Nước Hàn có một người học tập lấy bằng cử nhân ở Đại học Quốc gia Seoul. [ 36 ] Giữa năm 2003 và 2009, có nhiều học viên tốt nghiệp trung học khoa học và nhận học bổng tổng thống nhập học vào Trường Đại học Quốc gia Seoul hơn tổng số của tám trường ĐH nổi tiếng khác. [ 37 ]Những người đứng đầu kỳ thi Tu năng do cơ quan chính phủ Nước Hàn tổ chức triển khai thường vào Đại học Quốc gia Seoul và những sinh viên tốt nghiệp chiếm đa phần giới học thuật, chính trị và kinh doanh thương mại ở Nước Hàn. Nhưng cũng có quan điểm rằng trường là ‘ ĐH tốt nhất ở Nước Hàn hay ‘ nơi những danh tài của Hàn Quốc hội tụ ‘ trong khi vô hiệu nhiều người có năng lực. Nước Hàn hiện nằm trên đỉnh học thuật, có người nhu yếu Đại học Quốc gia Seoul nên bị giải tán. Thật ra, Tổng thống Roh Moo-hyun từng ủng hộ bãi bỏ Đại học Quốc gia Seoul. [ 38 ]

Thứ hạng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Năm năm ngoái, Thomson-Reuters nhìn nhận Đại học Quốc gia Seoul là cơ sở phát minh sáng tạo thứ 31 trên quốc tế, [ 39 ] Bảng xếp hạng ĐH quốc tế QS năm năm nay xếp vào thứ 35 quốc tế và 10 trong châu Á [ 33, 36 ], thứ 4 trong Bảng xếp hạng ĐH châu Á QS khu vực năm 2013. [ 40 ] Đại học Quốc gia Seoul là thứ 9 châu Á, 85 quốc tế theo Bảng xếp hạng ĐH quốc tế Times năm năm nay [ 32, 35 ], năm năm trước – năm ngoái là thứ 26 quốc tế. [ 41 ] Bảng xếp hạng học thuật ĐH quốc tế năm năm ngoái nhìn nhận Đại học Quốc gia Seoul nằm trong những ĐH thứ 101 – 105 quốc tế và tốt nhất trong nước. [ 42 ] Trung tâm xếp hạng ĐH quốc tế năm năm nay cho Đại học Quốc gia Seoul thứ hạng 24 trên quốc tế. [ 43 ]Bảng xếp hạng ĐH quốc tế QS theo môn năm 2018 : [ 44 ] thứ 25 với Nghệ thuật và Nhân văn học, 16 với Kỹ thuật và Công nghệ, 37 với Khoa học đời sống, Y học, 21 với Khoa học xã hội, Quản trị và 20 với Khoa học tự nhiên .Cơ sở được bài nghiên cứu và phân tích tài liệu năm 2008 của Chỉ số trích dẫn khoa học xếp hạng thứ 20 về mức xuất bản, [ 45 ] năm sau hạng 8 quốc tế về thử nghiệm lâm sàng. [ 46 ] Năm 2011 Mines ParisTech : Bảng xếp hạng chuyên nghiệp ĐH quốc tế cho biết Đại học Quốc gia Seoul xếp hạng thứ 10 quốc tế về số cựu sinh viên làm tổng giám đốc quản lý công ty Fortune 500. [ 47 ] Trường Đại học Quốc gia Seoul cũng có số sinh viên du học Mỹ lấy bằng tiến sỹ cao thứ ba năm 2006. [ 48 ]
Có những yếu tố về tính phong phú và tẩy chay chủng tộc với giáo sư quốc tế ở Trường Đại học Quốc gia Seoul, [ 49 ] từ năm 2009 có nỗ lực tuyển dụng giáo sư ngoại bang trong vài năm, số lượng đạt đỉnh ở 242 hay 4 % tổng số, sau thì giảm xuống, một tỷ suất lớn giáo sư ” quốc tế ” thật ra là cựu công dân Nước Hàn đã nhập tịch hải ngoại. Nhiều giáo sư quốc tế đợt đầu rời sau khi phàn nàn về tẩy chay chủng tộc, đôi khi không báo trước. [ 49 ] Đại học Quốc gia Seoul không thôi thúc được khét tiếng quốc tế bằng cách ký hợp đồng với những người đoạt Giải Nobel, bởi hầu hết đều đã nghỉ hưu và giữ những chức vụ học thuật ở nơi khác, đôi lúc rời bỏ trước khi hợp đồng hết hạn. [ 49 ]

Cựu sinh viên, giáo sư nổi tiếng[sửa|sửa mã nguồn]

Trong số cựu sinh viên nổi tiếng có những nhân vật trứ danh trong những tổ chức triển khai quốc tế và kinh doanh thương mại như Ban Ki-moon là Tổng thư ký Liên hợp quốc thứ tám, Hoesung Lee là quản trị Ủy ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu, Song Sang-hyun là cựu Viện trưởng Tòa án hình sự quốc tế, Lee Jong-wook là cựu Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, O-Gon Kwon là Cựu Phó viện trưởng kiêm Thẩm phán thường trực Tòa án hình sự quốc tế cho cựu Nam Tư và Kwon Oh-hyun là Giám đốc quản lý và điều hành kiêm quản trị Samsung Electronics và Bang Si-hyuk là quản trị kiêm nhà sáng lập của HYBE Corporation .

Trong giới tiếp thị quảng cáo[sửa|sửa mã nguồn]

Khuôn viên đã dùng làm địa điểm qua phim cho bộ phim truyền hình Star’s Lover năm 2008 của SBS, là đại học của Kim Chul Soo do Yoo Ji-tae thủ vai, các bài diễn thuyết của ông và cuộc thăm trường của Lee Ma-ri, Choi Ji-woo đóng vai, địa điểm dùng bao gồm phòng triển làm, Khuê chương các và các đường viện bảo tàng. Đây là lần đầu tiên cho phép khuôn viên dùng làm địa điểm quay phim.[50]

Tháng 5 năm năm ngoái, chuyến đi thứ 185 của chương trình tạp kỹ nổi tiếng Nước Hàn 2 Ngày 1 Đêm quảng cáo trường ĐH bằng cách tổ chức triển khai những trách nhiệm trên khuôn viên theo phong thái riêng của chương trình. [ 51 ]Trong bộ phim truyền hình Hồi đáp 1988 ( Reply 1988 ) chạy khách Nước Hàn năm năm nay của tvN, Ryu Hye-young đóng vai Bung Bo-ra là sinh viên Đại học Quốc gia Seoul theo học Giáo dục đào tạo toán học. [ 52 ]

Phim truyền hình Cheese In The Trap ăn khách năm 2016 quay ở Đại học Quốc gia Seoul.

Trường Đại học Quốc gia Seoul quan hệ mật thiết với cốt truyện trong phim SKY Castle ăn khách Hàn Quốc năm 2018-2019 của JTBC.

Năm 2021, trong bộ phim truyền hình của Netflix Trò chơi con mực (Squid Game), nhân vật chính Cho Sang-woo tham dự Đại học Quốc gia Seoul là một điểm cốt truyện lặp lại.

Năm 2021, trong bộ phim truyền hình của Netflix Điệu cha-cha-cha làng biển (Hometown Cha-Cha-Cha), nhân vật chính Hong Du-Sik đã tốt nghiệp Đại học Quốc gia Seoul.

Năm 2020-2021, trong bộ phim truyền hình của SBS Cuộc chiến thượng lưu (The Penthouse: War in Life), Đại học Quốc gia Seoul được nhiều nhân vật miêu tả là trường đại học lý tưởng để theo học.

  • Bài kiểm tra trình độ tiếng Anh Seoul
  • Bệnh viện Trường Đại học Quốc gia Seoul
  • Trạm Trường Đại học Quốc gia Seoul
  • Trường đại học quốc lập cứ điểm
  • Danh sách đại học quốc lập Hàn Quốc
  • Danh sách đại học, học viện Hàn Quốc
  • Giáo dục Hàn Quốc

Tham khảo, chú thích[sửa|sửa mã nguồn]

  • Seoul National University, “서울대학교 40 년사”(The 40 years history of Seoul National University), 1986.

Đường dẫn ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://dvn.com.vn/
Category : National

Alternate Text Gọi ngay