Hàm số là gì? – Các dạng của hàm số phổ biến
Mục Lục
Hàm số là gì? – Các dạng của hàm số phổ biến
Trong toán học, một hàm số[note 1] hay hàm là một quan hệ hai ngôi giữa hai tập hợp liên kết mọi phần tử của tập hợp đầu tiên với đúng một phần tử của tập hợp thứ hai. Ví dụ điển hình là các hàm từ số nguyên sang số nguyên hoặc từ số thực sang số thực.
Các hàm số ban đầu là sự lý tưởng hóa cách một đại lượng thay đổi phụ thuộc vào một đại lượng khác. Ví dụ, vị trí của một hành tinh là một hàm số của thời gian. Về mặt lịch sử, khái niệm này được xây dựng dựa trên phép tính vi tích phân vào cuối thế kỷ 17, và cho đến thế kỷ 19, các hàm được coi là khả vi (nghĩa là chúng có mức độ mịn cao). Khái niệm hàm số được chính thức hóa vào cuối thế kỷ 19 dưới dạng lý thuyết tập hợp, và điều này đã mở rộng đáng kể các lĩnh vực ứng dụng của khái niệm này.
Hàm số là một khái niệm trong toán học mô tả mối quan hệ giữa hai tập hợp các số, thường gọi là miền xác định và miền giá trị, trong đó mỗi phần tử trong miền xác định tương ứng với một phần tử trong miền giá trị theo một cách xác định. Hàm số có thể biểu diễn mối quan hệ này dưới dạng biểu đồ, bảng giá trị hoặc công thức toán học.
Các dạng của hàm số phổ biến bao gồm:
- Hàm số tuyến tính: Đây là loại hàm mà biểu đồ của nó là một đường thẳng. Ví dụ: hàm số f(x) = ax + b, trong đó a và b là các hệ số cố định.
- Hàm số bậc hai (hàm số lũy thừa hai): Đây là loại hàm có biểu đồ là một đường parabol với một đỉnh. Ví dụ: hàm số f(x) = ax^2 + bx + c, trong đó a, b, và c là các hệ số cố định.
- Hàm số mũ (exponential function): Đây là loại hàm mà biểu đồ tăng hoặc giảm theo một tỷ lệ cố định. Ví dụ: hàm số f(x) = a^x, trong đó a là một số cố định lớn hơn 0 và khác 1.
- Hàm số logarit (logarithmic function): Đây là loại hàm số ngược với hàm số mũ. Ví dụ: hàm số f(x) = log_a(x), trong đó a là một số cố định lớn hơn 0 và khác 1.
- Hàm số trực quan (trigonometric function): Đây là loại hàm số liên quan đến lượng góc và tam giác. Các hàm số này bao gồm sin(x), cos(x), và tan(x).
- Hàm số hợp (composite function): Đây là loại hàm mà một hàm số được áp dụng lên kết quả của một hàm số khác. Ví dụ: f(g(x)), trong đó f và g là hai hàm số.
- Hàm số giả đảo (inverse function): Đây là loại hàm số có một quan hệ đảo với một hàm số khác. Ví dụ: nếu f(x) và g(x) là hai hàm số giả đảo của nhau, thì f(g(x)) = x và g(f(x)) = x.
Các loại hàm số này có ứng dụng rộng rãi trong toán học, khoa học, kỹ thuật và nhiều lĩnh vực khác, giúp mô tả và dự đoán các mối quan hệ và hiện tượng trong thế giới thực.
Một hàm số là một quá trình hoặc một mối quan hệ mà liên kết mỗi phần tử x của một tập hợp X, được gọi là miền xác định của hàm số, đến một phần tử y duy nhất của một tập hợp Y (có thể là cùng một tập hợp như X), và gọi là tập hợp đích của hàm số này. Hàm số thường được ký hiệu bằng các chữ cái như f, g và h.[1]
Bạn đang đọc: Hàm số – Wikipedia tiếng Việt
Nếu hàm được gọi là f, quan hệ này được ký hiệu là y = f (x) (đọc là ” f của x “), trong đó phần tử x là đối số hoặc đầu vào của hàm và y là giá trị của hàm, đầu ra hoặc ảnh của x theo f .[2] Ký hiệu được sử dụng để biểu diễn đầu vào là biến của hàm (ví dụ: f là hàm của biến x).[3]
Một hàm số được biểu diễn duy nhất bởi tập hợp tất cả các cặp số (x, f (x)), được gọi là đồ thị của hàm số. [note 2][4] Khi miền và miền là tập hợp các số thực, mỗi cặp như vậy có thể được coi là tọa độ Descartes của một điểm trong mặt phẳng. Tập hợp các điểm này được gọi là đồ thị của hàm số; nó là một phương tiện phổ biến để minh họa một hàm số.
Nói một cách trực quan, hàm là một quá trình liên kết từng phần tử của tập hợp X với một phần tử của tập hợp Y.
Về mặt hình thức, một hàm f từ tập X đến tập Y được xác định bởi tập G gồm các cặp có thứ tự (x, y) sao cho x ∈ X, y ∈ Y, và mọi phần tử của X là thành phần đầu tiên của đúng một cặp có thứ tự ghép đôi trong G [6] [note 3] Nói cách khác, với mọi x trong X, có đúng một phần tử y sao cho cặp có thứ tự (x, y) thuộc tập các cặp xác định hàm f. Tập hợp G được gọi là đồ thị của hàm số. Về mặt hình thức, nó có thể được xác định với hàm số trên, nhưng điều này che giấu cách giải thích thông thường về một chức năng như một quá trình. Do đó, trong cách sử dụng thông thường, hàm số thường được phân biệt với đồ thị của nó.
Hàm còn được gọi là ánh xạ, mặc dù một số tác giả phân biệt giữa “ánh xạ” và “hàm số”.
Trong định nghĩa về hàm số, X và Y tương ứng được gọi là tập/miền xác định và tập đích/ miền giá trị của hàm f [7] Nếu (x, y) thuộc tập xác định f, thì y là ảnh của x thông qua f, hoặc giá trị của f được áp dụng cho đối số x. Đặc biệt, trong ngữ cảnh của các con số, người ta cũng nói rằng y là giá trị của f đối với giá trị x của biến của nó, hay ngắn gọn hơn, y là giá trị của f của x, được ký hiệu là y = f(x) .
Hai hàm f và g là bằng nhau, nếu miền và tập hợp miền xác định của chúng giống nhau và giá trị đầu ra của chúng giống nhau trên toàn miền xác định đó. Chính thức hơn, f = g nếu f(x) = g(x) với mọi x ∈ X, trong đó f:X → Y và g:X → Y [note 4]
Miền xác định và miền giá trị không phải lúc nào cũng được cung cấp rõ ràng khi một hàm được xác định và, nếu không có một số tính toán (có thể khó), người ta có thể chỉ biết rằng miền được chứa trong một tập hợp lớn hơn. Thông thường, điều này xảy ra trong giải tích toán học, trong đó “một hàm từ X tới Y ” thường đề cập đến một hàm có thể có một tập con thích hợp[note 5] của X là miền xác định. Ví dụ, một “hàm từ giá trị thực đến giá trị thực” có thể tham chiếu đến một hàm có giá trị thực của một biến thực. Tuy nhiên, một “hàm từ số thực đến số thực” không có nghĩa là miền của hàm là toàn bộ tập các số thực, mà chỉ có nghĩa miền là tập các số thực có chứa khoảng mở không rỗng. Khi đó một hàm như vậy được gọi là hàm một phần. Ví dụ: nếu f là một hàm có các số thực là miền xác định và miền giá trị, thì một hàm ánh xạ giá trị x với giá trị
g
(
x
)
=
1
f
(
x
)
{\displaystyle g(x)={\tfrac {1}{f(x)}}}
Phạm vi của một hàm là tập hợp các ảnh của tất cả các phần tử trong miền.[10][11][12] Tuy nhiên, phạm vi đôi khi được sử dụng như một từ đồng nghĩa của miền giá trị,[12][13] thường sử dụng trong các sách cũ.
Định nghĩa dùng quan hệ[sửa|sửa mã nguồn]
Bất kỳ tập con nào của tích Descartes gồm hai tập hợp
X
{\displaystyle X}
và
Y
{\displaystyle Y}
xác định một quan hệ hai ngôi
R
⊆
X
×
Y
{\displaystyle R\subseteq X\times Y}
giữa hai tập hợp này. Rõ ràng là một quan hệ tùy ý có thể chứa các cặp đôi vi phạm các điều kiện cần thiết cho một hàm số đã cho ở trên.
Một quan hệ hai ngôi là có tính hàm số ( còn được gọi là duy nhất bên phải ) nếu
∀
x
∈
X
,
∀
y
∈
Y
,
∀
z
∈
Y
,
(
(
x
,
y
)
∈
R
∧
(
x
,
z
)
∈
R
)
⟹
y
=
z
.
{\displaystyle \forall x\in X,\forall y\in Y,\forall z\in Y,((x,y)\in R\land (x,z)\in R)\implies y=z.}
Một quan hệ nhị phân là có tính tiếp nối đuôi nhau ( còn được gọi là tổng bên trái ) nếu
∀
x
∈
X
,
∃
y
∈
Y
,
(
x
,
y
)
∈
R
.
{\displaystyle \forall x\in X,\exists y\in Y,(x,y)\in R.}
Một hàm một phần là một quan hệ hai ngôi mà có tính hàm số ..Một hàm số là một quan hệ hai ngôi có tính hàm số và tiếp nối đuôi nhau .
Các thuộc tính khác nhau của hàm số và thành phần hàm số có thể được định dạng lại bằng ngôn ngữ của các quan hệ. Ví dụ, một hàm số là đơn ánh nếu quan hệ ngược
R
T
⊆
Y
×
X
{\displaystyle R^{\text{T}}\subseteq Y\times X}
là có tính hàm số, trong đó quan hệ ngược được định nghĩa là
R
T
=
{
(
y
,
x
)
∣
(
x
,
y
)
∈
R
}
.
{\displaystyle R^{\text{T}}=\{(y,x)\mid (x,y)\in R\}.}
[14]
Cách cho hàm số[sửa|sửa mã nguồn]
Hàm số hoàn toàn có thể được cho bằng bảng hoặc bằng biểu đồ hoặc bằng 1 biểu thức hoặc nhiều biểu thức trên từng khoảng chừng, đoạn, nửa khoảng chừng .Ví dụ : X = { 1,2,3,4,5 }, Y = { 5,6,7,8,9,10 } .
Hàm
f
:
X
→
Y
{\displaystyle f:X\to Y}
được cho bảng sau:
x | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
y | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |
Các hàm cho bằng biểu thức như
y
=
2
x
+
3
{\displaystyle y=2x+3}
,
y
=
x
2
{\displaystyle y=x^{2}}
,
y
=
sin
x
{\displaystyle y=\sin x}
…
Lưu ý : Trong chương trình môn Toán ở bậc Trung học đại trà phổ thông của Nước Ta ( chỉ đề cập đến Hàm số biến số thực ) quy ước rằng :
- Khi không nói rõ thêm, miền xác định (tập xác định) của hàm số cho bằng biểu thức y = f(x) là tập hợp tất cả các giá trị của x làm cho f(x) có nghĩa.
- Ví dụ: Hàm số y = log 2 x { \ displaystyle y = { \ log } _ { 2 } x }{ x ∈ R | x > 0 } { \ displaystyle \ { x \ in \ mathbb { R } | x > 0 \ } }( 0 ; + ∞ ) { \ displaystyle ( 0 ; + \ infty ) }
-
- Hàm số y = ( x − 1 ) ( 3 − x ) { \ displaystyle y = { \ sqrt { ( x-1 ) ( 3 – x ) } } }[ 1 ; 3 ] { \ displaystyle [ 1 ; 3 ] }
-
- Miền giá trị của hàm số y = f(x) là tập hợp tất cả các giá trị có thể có của f ( x ) { \ displaystyle f ( x ) }f ( X ) { \ displaystyle f ( X ) }
- Ví dụ: Miền giá trị của hàm số y = x ( 5 − x ) { \ displaystyle y = { \ sqrt { x ( 5 – x ) } } }[ 0 ; 2.5 ] { \ displaystyle [ 0 ; 2.5 ] }
- Nếu X,Y ⊂ R { \ displaystyle \ subset \ mathbb { R } }
- Ví dụ: Hàm lượng giác y = sin x { \ displaystyle y = \ sin x }y = 2 x { \ displaystyle y = 2 ^ { x } }
- Nếu X,Y ⊂ C { \ displaystyle \ subset \ mathbb { C } }
- Ví dụ: Hàm dao động y = cos φ + i sin φ { \ displaystyle y = \ cos \ varphi + i \ ; \ sin \ varphi }
- Nếu X ⊂ N { \ displaystyle \ subset \ mathbb { N } }
- Ví dụ: Hàm Euler ϕ ( n ) { \ displaystyle \ phi ( n ) }σ ( n ) { \ displaystyle \ sigma ( n ) }
Các dạng của hàm số[sửa|sửa mã nguồn]
Đơn ánh, tuy nhiên ánh, toàn ánh[sửa|sửa mã nguồn]
Như trên đã đề cập, hàm số là một trường hợp ánh xạ, nên người ta cũng miêu tả hàm số dưới 3 dạng là đơn ánh, toàn ánh và tuy nhiên ánh .
Một hàm số là đơn ánh khi nó vận dụng lên 2 đối số khác nhau luôn cho 2 giá trị khác nhau .
Một cách chặt chẽ, hàm f, xác định trên X và nhận giá trị trong Y, là đơn ánh nếu như nó thỏa mãn điều kiện với mọi x1 và x2 thuộc X và nếu x1 ≠ x2 thì f(x1) ≠ f(x2).
Nghĩa là, hàm số f là đơn ánh khi và chỉ khi:
- ∀ x 1, x 2 ∈ X ; x 1 ≠ x 2 ⇒ f ( x 1 ) ≠ f ( x 2 ) { \ displaystyle \ forall x_ { 1 }, x_ { 2 } \ in { \ mathit { X } } \, \ ! ; x_ { 1 } \ neq x_ { 2 } \ Rightarrow f ( x_ { 1 } ) \ neq f ( x_ { 2 } ) }
Với đồ thị hàm số y = f ( x ) trong hệ tọa độ Đề những, mọi đường thẳng vuông góc với trục đối số Ox sẽ chỉ cắt đường cong đồ thị tại nhiều nhất là một điểm
Hàm số f được gọi là toàn ánh nếu như với mọi số y thuộc Y ta luôn tìm được ít nhất một số x thuộc X sao cho f(x) = y. Theo cách gọi của ánh xạ thì điều kiện này có nghĩa là mỗi phần tử y thuộc Y đều là ảnh của ít nhất một tạo ảnh x thuộc X qua ánh xạ f.
Nghĩa là, hàm số f là toàn ánh khi và chỉ khi:
- ∀ y ∈ Y, ∃ x ∈ X : f ( x ) = y { \ displaystyle \ forall y \ in Y, \ exists x \ in X : f ( x ) = y }f ( X ) = Y { \ displaystyle { \ mathit { f ( X ) = Y } } \, \ ! }
Đồ thị hàm
y
=
f
(
x
)
{\displaystyle y=f(x)\,}
cắt đường thẳng
y
=
y
0
∀
y
0
{\displaystyle y=y_{0}\forall y_{0}}
Trong toán học, song ánh, hoặc hàm song ánh, là một hàm số f từ tập X vào tập Y thỏa mãn tính chất, đối với mỗi y thuộc Y, có duy nhất một x thuộc X sao cho f(x) = y.
Nói cách khác, f là một song ánh nếu và chỉ nếu nó là tương ứng một-một giữa hai tập hợp; tức là nó vừa là đơn ánh và vừa là toàn ánh.
Ví dụ, xét hàm fxác định trên tập hợp số nguyên vào, được định nghĩa f(x) = x + 1. Ví dụ khác, đối với mỗi cặp số thực (x,y) hàm f xác định bởi f(x,y) = (x + y, x − y) là một song ánh
Hàm song ánh đôi khi còn gọi là hoán vị.
Tập hợp tất cả các song ánh từ tập X vào tập Y được ký hiệu là X ↔ Y. Thông thường tập các hoán vị của tập X được ký hiệu là X!.
Song ánh đóng nhiều vai trò quan trọng trong toán học, như nó dùng để định nghĩa đẳng cấu ( và những khái niệm tương quan như phép đồng phôi và vi phôi ), nhóm hoán vị, ánh xạ xạ ảnh, và nhiều định nghĩa khác
Đơn ánh nhưng không phải toàn ánh |
Toàn ánh nhưng không phải đơn ánh |
Song ánh |
Hàm hợp và hàm ngược[sửa|sửa mã nguồn]
Cho những hàm số :
- f 1 : X → Y { \ displaystyle f_ { 1 } \ colon X \ to Y }
- f 2 : Y → Z { \ displaystyle f_ { 2 } \ colon Y \ to Z }
trong đó X, Y, Z là các tập hợp số nói chung. Hàm hợp của f1 và f2 là hàm số:
- f : X → Z { \ displaystyle f \ colon X \ to Z }
được định nghĩa bởi :
- f ( x ) = f 2 ( f 1 ( x ) ) ; x ∈ X { \ displaystyle { \ mathit { f ( x ) = f_ { 2 } ( f_ { 1 } ( x ) ) ; x } } \ in X }
Có thể ký hiệu hàm hợp là :
- f = f 2 ∘ f 1 { \ displaystyle f = f_ { 2 } \ circ f_ { 1 } }
Ví dụ, hàm số f(x) = sin (x2+1) là hàm số hợp f2(f1(x)), trong đó f2(y) = sin(y), f1(x) = (x2 +1).
Việc nhận ra một hàm số là hàm hợp của những hàm khác, trong nhiều trường hợp hoàn toàn có thể khiến những giám sát giải tích ( đạo hàm, vi phân, tích phân ) trở nên đơn thuần hơn .
Cho hàm số tuy nhiên ánh :
- f : X → Y { \ displaystyle f \ colon X \ to Y }
trong đó X, Y là tập hợp số nói chung.Khi đó mỗi phần tử y = f(x) với y nằm trong Y đều là ảnh của một và chỉ một phần tử x trong X. Như vậy, có thể đặt tương ứng mỗi phần tử y trong Y với một phần tử x trong X. Phép tương ứng đó đã xác định một hàm số, ánh xạ từ Y sang X, hàm số này được gọi là hàm số ngược của hàm số f và được ký hiệu là:
- f − 1 : y ↦ x = f − 1 ( y ) { \ displaystyle f ^ { – 1 } \ colon y \ mapsto x = f ^ { – 1 } ( y ) }
Nếu f−1(x) tồn tại ta nói hàm số f(x) là khả nghịch. Có thể nói tính chất song ánh là điều kiện cần và đủ để hàm f(x) khả nghịch, tức là nếu f(x) là song ánh thì ta luôn tìm được hàm ngược f−1(x) và ngược lại.
Đồ thị của hàm số[sửa|sửa mã nguồn]
Thông thường thì hàm số được xác định bằng một biểu thức tổng quát y = f(x) nào đó, ví dụ như y = x2 – 5. Tuy nhiên cũng có những hàm đặc biệt mà quy tắc cho tương ứng x với y của nó không theo bất kỳ một quy luật nào để có thể diễn đạt bằng một biểu thức toán học. Trong trường hợp này ta có thể lập bảng cho các giá trị đối số x và các giá trị hàm số y tương ứng với chúng. Ngoài ra hàm số còn có thể được xác định một cách triệt để bằng đồ thị của nó.
Đối với hàm số một biến số thực ( có miền xác lập thực ), đồ thị hàm số được định nghĩa như sau :
- Đồ thị của hàm số y = f(x) là tập hợp các điểm trên mặt phẳng R2 có tọa độ [x, f(x)].
Ký hiệu đồ thị hàm số theo định nghĩa trên là:
g
r
a
p
h
f
≡
{
(
x
,
y
)
∈
R
2
∣
y
=
f
(
x
)
}
{\displaystyle graphf\equiv {\begin{Bmatrix}(x,y)\in R^{2}\mid y=f(x)\end{Bmatrix}}}
Các đặc thù của hàm số[sửa|sửa mã nguồn]
Tính đơn điệu[sửa|sửa mã nguồn]
Giả sử hàm số y = f ( x ) xác lập trên K. Ta nói :
- Hàm số y= f(x) đồng biến (tăng) trên K nếu với mọi cặp x 1 { \ displaystyle x_ { 1 } }x 2 { \ displaystyle x_ { 2 } }x 1 { \ displaystyle x_ { 1 } }x 2 { \ displaystyle x_ { 2 } }f ( x 1 ) { \ displaystyle f ( x_ { 1 } ) }f ( x 2 ) { \ displaystyle f ( x_ { 2 } ) }
∀x1
<
x
2
,
→
f
(x
1
)
<
f
(x
2
)
{\displaystyle \forall x_{1}<x_{2},\rightarrow <=”” f(x_{1})<f(x_{2})}=”” p=””></x_{2},\rightarrow>
- Hàm số y = f(x) nghịch biến (giảm) trên K nếu với mọi cặp x 1 { \ displaystyle x_ { 1 } }x 2 { \ displaystyle x_ { 2 } }x 1 { \ displaystyle x_ { 1 } }x 2 { \ displaystyle x_ { 2 } }f ( x 1 ) { \ displaystyle f ( x_ { 1 } ) }f ( x 2 ) { \ displaystyle f ( x_ { 2 } ) }
∀x1
< x 2 , → f ( x 1 ) >
f
(x
2
)
{\displaystyle \forall x_{1}<x_{2},\rightarrow f(x_{1})=””>f(x_{2})}
</x_{2},\rightarrow>
Tính chẵn lẻ[sửa|sửa mã nguồn]
Điều kiện để một hàm số chẵn hoặc lẻ[sửa|sửa mã nguồn]
Cho hàm số y = f ( x ) xác lập trên D
- Điều kiện tiên quyết để hàm số có tính chẵn lẻ là tập xác định của hàm số phải đối xứng qua điểm 0, tức là ∀ x ∈ D, − x ∈ D { \ displaystyle \ forall x \ in D, – x \ in D }
- Để hàm số được xem là chẵn cần thêm điều kiện f(-x) = f(x)
- Để hàm số được xem là lẻ cần thêm điều kiện f(-x) = -f(x)
- Nếu thiếu điều kiện 1 hoặc cả hai điều kiện 2 và 3 thì xem như hàm số không có tính chẵn lẻ.
Đồ thị của hàm số chẵn và hàm số lẻ[sửa|sửa mã nguồn]
Trong mặt phẳng tọa độ Descartes :
- Đồ thị của mọi hàm số chẵn đều nhận trục Oy làm trục đối xứng.
- Đồ thị của mọi hàm số lẻ đều nhận gốc tọa độ làm tâm đối xứng.
- ^ map, mapping, transformation, correspondence, and operator are often used synonymously. Lỗi harv : không có tiềm năng : CITEREFHalmos1970 ( trợ giúpThe words, andare often used synonymously. Halmos 1970
- ^
This definition of “graph” refers to a set of pairs of objects. Graphs, in the sense of diagrams, are most applicable to functions from the real numbers to themselves. All functions can be described by sets of pairs but it may not be practical to construct a diagram for functions between other sets (such as sets of matrices).
- ^ X, Y are parts of data defining a function; i.e., a function is a set of ordered pairs ( x, y ) { \ displaystyle ( x, y ) }x ∈ X, y ∈ Y { \ displaystyle x \ in X, y \ in Y }X, Y, such that for each x ∈ X { \ displaystyle x \ in X }y ∈ Y { \ displaystyle y \ in Y }( x, y ) { \ displaystyle ( x, y ) }The setsare parts of data defining a function ; i. e., a function is a set of ordered pairswith, together with the sets, such that for each, there is a uniquewithin the set .
- ^ “When do two functions become equal?”. Stack Exchange. ngày 19 tháng 8 năm 2015.
Xem thêm: Dude là gì? Dude có ý nghĩa gì? Dude được sử dụng như thế nào? – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng
This follows from the axiom of extensionality, which says two sets are the same if and only if they have the same members. Some authors drop codomain from a definition of a function, and in that definition, the notion of equality has to be handled with care ; see, for example ,
- ^
called the domain of definition by some authors, notably computer science
Source: https://dvn.com.vn
Category: Hỏi Đáp