Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ bếp lửa của Bằng Việt – Honda Anh Dũng

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ bếp lửa của Bằng Việt gồm dàn ý chi tiết, cùng 3 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, tích lũy vốn từ để ôn thi vào lớp 10 đạt kết quả cao. Hãy cùng tham khảo với HDAD nhé !

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt Thông qua 3 bài cảm nhận bài thơ Bếp lửa, giúp cho những em học viên củng cố lại kỹ năng và kiến thức Ngữ văn lớp 9. Vậy mời những em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wiki HDAD để có thêm nhiều sáng tạo độc đáo mới hoàn thành xong bài viết của mình :

Dàn ý nêu cảm nhận của em về bài thơ bếp lửa

Dưới đây là hướng dẫn dàn ý nêu cảm nhận của em về bài thơ bếp lửa hãy cùng tìm hiểu thêm để làm bài thật tốt nhé : Dàn ý nêu cảm nhận của em về bài thơ bếp lửa

1. Mở bài

  • Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa

2. Thân bài

– Hình ảnh bếp lửa chờn vờn, ấp iu gợi nhớ đến người bà nhóm bếp trong lòng tác giả – Bà trải qua nhiều lo toan, khó khăn vất vả, nhọc nhằn qua bao năm tháng – Bếp lửa gắn với tuổi thơ của cháu cùng bà :

  • 8 năm cùng bà nhóm bếp, khói hun nhèm mắt, sống mũi cay
  • Được bà dạy cho làm, chăm cho học
  • Được bà thấy ba mẹ chăm bẵm lớn khôn từng ngày
  • Tiếng tu hú gọi khát khao được trở về bên bà

– Tình cảm của cháu ở phương xa :

  • Dù nơi ở mới có những tiện nghi, đủ đầy nhưng cháu không thể quên những năm tháng vất vả bên bà xưa kia.
  • Nỗi nhớ bà vẫn luôn thường trực trong tim cháu mỗi ngày, mỗi sớm mai.
  • Nỗi nhớ nhà hòa trong nỗi nhớ quê hương, đất nước mình.

3. Kết bài

  • Cảm nghĩ về bài thơ

Cảm nhận bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt – Mẫu 1

Khi lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể là kỉ niệm với người mẹ thân yêu, với người cha tôn kính, hoàn toàn có thể là với người bà trân trọng. Với Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của mình là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện cùng bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn xúc cảm để tác giả nhớ về bà và viết về bà qua bài thơ đậm chất trữ tình : Bếp lửa. cảm nhận của em về bài bếp lửa Mở đầu bài thờ là hình ảnh bếp lửa :

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Ba tiếng “ một bếp lửa ” đã trở thành điệp khúc, gợi lại một hình ảnh quen thuộc trong mỗi mái ấm gia đình ở làng quê Nước Ta. Hình ảnh “ bếp lửa ” thật ấm cúng giữa cải giá lạnh của sương sớm. Đó không chỉ là cái chờn vờn của ngọn lửa mới được nhóm lên trong sương mà còn là cái chờn vờn trong tâm lý của người chầu nơi phương xa. Hình ảnh bếp lửa thân quen với biết bao tình cảm ấp iu nồng đượm. Nó đã gợi lại sự săn sóc, lo ngại, chăm chút, che chở cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu lại nhớ thương khi nghĩ về bà : Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Đọng lại trong câu thơ là chữ “ thương ”, biểu lộ tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà khó khăn vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh “ biết mấy nắng mưa ”, làm thế nào tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà khó khăn vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian nan thời còn bé !

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.

Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Năm ấy, Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Sống trong thực trạng ấy thì làm thế nào tránh được những cơ cực. Từ ghép “ mòn mỏi ” được chia tách ra, xen kẽ với từ đói đã gợi cái cảm xúc nạn đói ấy vừa lê dài và còn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất so với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa quen thuộc :

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói…
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

Giờ đây nghĩ lại, cháu như đang sống lại những năm tháng ấy. Câu thơ ấy sức truyền cảm đặc biệt quan trọng khiến người đọc không khỏi có cảm xúc cay cay nơi sống mũi. Tuổi thơ ấy lớn lên trong cảnh hoang tàn của cuộc chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá. Cuộc sống khó khăn vất vả tuy nhiên hai bà cháu cũng được an ủi bởi tình cảm hàng xóm láng giềng. Bởi trong thực trạng chung của nhiều mái ấm gia đình Nước Ta lúc ấy, những người lớn phải tham gia kháng chiến, ở nhà chỉ còn cụ già và cháu nhỏ : Mẹ cùng cha công tác làm việc bận không về. Và vì vậy chỉ có hai bà cháu côi cút bên nhau. Bà kể chuyện ở Huế cho cháu nghe, bà dạy cháu học, chỉ cháu làm. Bao việc làm bà đều lo hết vì cha mẹ bận công tác làm việc không về. Bà là chỗ dựa cho cháu, và đứa cháu ngoan ngoãn là nguồn vui sống của bà. Những kỉ niệm của tuổi thơ đều gắn liền với hình ảnh “ bếp lửa ”, bởi “ lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói ”, đã sớm phải lo toan. “ Cháu cùng bà nhóm lửa ” trong tám năm ròng rã. Tám năm đó nó cũng không phải là dài lắm nhưng sao cứ lê dài lê thê trong lòng cháu. Cho nên, nhớ về tuổi thơ, người cháu lại “ chỉ nhớ khói hun nhèm mắt ”. Cảm giác ấy chân thực và xúc động. Cái làn khói bếp của thời xưa ấy như bay đến tận giờ đây làm cay nơi sống mũi. Ngày xưa cay vì khói còn giờ đây sống mũi lại cay khi nhớ về tuổi thơ và cũng vì thương nhớ đến người bà. Người cháu nghĩ đến bà rồi nghĩ đến quê nhà, đến loài chim tu hú. “ Tu hú ” được nhắc lại bốn lần, tiếng kêu của nó trên đồng xa như sự cảm thông cho đời sống đói nghèo trong cuộc chiến tranh của hai bà cháu. Và trong lời kể của bà có cả “ tiếng tu hú sao mà tha thiết thế ”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dậy lên một mong mỏi :

Tù hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Kỉ niệm của tuổi thơ đã được thức tỉnh, ở đó có hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm và có hình ảnh cả quê nhà. Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc sống của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để nhóm bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm cúng, toả sáng trong mái ấm gia đình :

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin cậy. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “ kì diệu ” và “ thiêng liêng ”. Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu : “ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ ”. Bà lặng lẽ chịu đựng, hi sinh để : “ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố ”. Chính do đó, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà quen thuộc có nỗi khó khăn vất vả, gian lao của người bà.

cảm nhận của em về bài bếp lửa

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.

Trong bài thơ có tới mười lần người bà hiện hữu cùng bếp lửa với vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ “ bếp lửa ”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ ngọn lửa ” :

Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “ niềm vui trăm ngả ”, “ có khói trăm tàu ”, “ có lửa trăm nhà ”, một quốc tế to lớn với bao điều mới lạ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi : “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? ”. Mỗi ngày đều tự hỏi “ Sớm mai này ” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới. Bằng Việt đã phát minh sáng tạo hình tượng “ bếp lửa ” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình ngưng trệ, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp tươi của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hành trình dài dài rộng của cuộc sống. Bằng Việt đã bộc lộ lòng yêu thương, biết ơn bà thâm thúy. Lòng biết ơn chính là bộc lộ đơn cử của tình yêu quê nhà, quốc gia khi đã đi xa.

Cảm nhận bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt – Mẫu 2

Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với giọng văn tự sự, trữ tình riêng không liên quan gì đến nhau, ông đã có những tập thơ để lại dấu ấn trong lòng người đọc như Hương cây – Bếp lửa, Những khuôn mặt những khoảng chừng trời, Đất sau mưa … Bài thơ “ Bếp lửa ”, trích từ tập thơ Hương cây – Bếp lửa, là một trong những sáng tác xuất sắc nhất của nhà thơ khi khắc họa lại những ký ức về người bà ở quê nhà trong những năm tháng tác giả xa quê nhà. cảm nhận về bài bếp lửa Bếp lửa là những kỷ niệm khó phai về hình ảnh người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ, mỗi khi nhắc đến bếp lửa, hình ảnh người bà tần tảo lại ùa về trong ký ức : “ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa ” Mở đầu bài thơ, hình ảnh “ bếp lửa ” được điệp lại đến hai lần, nhấn mạnh vấn đề hình tượng TT của bài thơ, là hình ảnh thân quen, khơi nguồn cảm hứng cho cháu. Từ láy “ chờn vờn ” tạc hình ngọn lửa, hay chính là kỷ niệm ùa về như ngọn lửa lòng thôi thúc người cháu. Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bàn tay tỉ mẩn của người bà, chắt chiu, gìn giữ, lo ngại cho đứa cháu ruột rà để rồi tạc vào lòng người đọc một tình cảm thiêng liêng là kết tinh của những hình ảnh ấy : “ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa ” Cụm từ biết mấy nắng mưa gợi về thành ngữ “ mưa nắng dãi dầu ”, nói lên sự khổ cực mà người bà đồng ý để lo ngại, vun vén cho mái ấm gia đình. Bài thơ gợi lại cả một thời tuổi nhỏ, nhọc nhằn, thiếu thốn của người cháu bên cạnh người bà, ở đó có cả bóng tối ghê rợn của nạn đói kinh khủng năm 1945 :

“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”

Thuở ấy, tuổi thơ của cháu gắn gắn liền với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy tủi cực. Có những khi “ Giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi ” trong khi mẹ và cha bận công tác làm việc xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay nuôi nấng, đùm bọc của bà. “ Bà bảo cháu nghe ” từng câu truyện quê nhà, “ bà dạy cháu làm ” từng việc làm trong nhà, “ bà chăm cháu học ” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom thù. Tất cả những li ti, tủn mủn trong đời sống đều đặt lên đôi vai của người bà tần tảo khiến bà phải kiên cường can đảm và mạnh mẽ hơn khi nào hết : “ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên ” Câu nói ấy của bà đã theo tác giả suốt ngần ấy năm mà không thể nào quên được. Đó là câu nói biểu lộ sự quyết tử to lớn của những bà mẹ. Hình ảnh bà khi nào cũng ấm cúng yêu thương và tình cảm hai bà cháu khi nào cũng thắm thiết sâu nặng không dễ gì quên :

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ” Từ “ bếp lửa ” được đơn cử ở trên đến hai câu dưới, nhà thơ dùng từ ngọn lửa mà không nhắc lại “ bếp lửa ”. “ Ngọn lửa ” ở đây mang một ý nghĩa khái quát to lớn, sâu xa hơn : Đó là ngọn lửa của niềm kỳ vọng, có sức sống bền chắc của tình bà cháu, tình quê nhà nồng đượm. Bếp lửa chỉ làm nồng ấm câu thơ nhưng hình ảnh “ ngọn lửa ” tỏa sáng từng dòng thơ lộng lẫy hình ảnh của bà ấm lòng người đọc. Hình ảnh bà là hình ảnh người nhóm lửa, giữ lửa và đặc biệt quan trọng còn là người truyền lửa, ngọn lửa thiêng của sự sống niềm tin cho những thế hệ tiếp nối đuôi nhau. Tác giả đã nhắc đến những điều ấy với toàn bộ sự quý trọng và lòng biết ơn so với bà. Bởi nói đến bà là nói đến những cảnh tượng khó khăn vất vả, tảo tần : cảm nhận của em về bếp lửa “ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa … Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi ”. Cụm từ “ ấp iu nồng đượm ” được láy lại đến hai lần, nhưng ở đây không còn là hình ảnh “ một bếp lửa ” mà là hình ảnh “ nhóm bếp lửa ”. Đằng sau “ biết mấy nắng mưa ” của cuộc sống “ lận đận ”, người bà vẫn nhen nhóm thắp lên ngọn lửa, không riêng gì là ngọn lửa của thực tại mà còn là ngọn lửa của tình yêu thương, của sự ngọt bùi thơm thảo mang nặng tình cảm mái ấm gia đình. Nhà thơ đã 10 lần nhắc đến hình ảnh bếp lửa và cạnh bên đó là người bà. Nhớ đến bà là cháu nhớ đến hình ảnh bếp lửa, nói đến hình ảnh bếp lửa là cháu lại nhớ ngay đến bà, vì hai hình ảnh này gắn bó với nhau suốt những năm dài gian nan. Bếp lửa gắn với cuộc sống của bà với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại, quyết tử. Bếp lửa đã thắp sáng niềm kỳ vọng, của sức sống bền chắc, của tình ba cháu, tình quê nhà. Hình ảnh bếp lửa ở đây vừa có nghĩa thực vừa có ý nghĩa tượng trưng, vừa thân mật lại rất đỗi tự hào khiến Bằng Việt phải thốt lên : “ Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa ”. Trở về với thực tại, nhà thơ đang ở nơi “ đất khách ” trên hành trình dài chinh phục con chữ về tăng trưởng quê nhà, chắc như đinh sẽ không gặp phải khó khăn vất vả của “ những năm đói mòn đói mỏi ” thế nhưng hình ảnh người bà tần tảo với bếp lửa sớm hôm vẫn luôn hiển hiện bởi đó là quá khứ, là tuổi thơ, là ký ức những tháng ngày khó nhọc cùng tình cảm thiêng liêng bất diệt : “ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? … ” Câu hỏi tu từ cùng thẩm mỹ và nghệ thuật tu từ im re đã kết thúc bài thơ, thế nhưng lại mở ra biết bao xúc cảm trong lòng người đọc về những hoài niệm ân tình tha thiết và sâu nặng về tình cảm bà cháu. Bài thơ đã phối hợp thuần thục giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và phản hồi, trải qua việc phát minh sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh của người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỷ niệm, xúc cảm, tâm lý về tình bà cháu. Qua từng câu chữ trong bài thơ, hình ảnh người bà hiện lên lộng lẫy, đẹp tươi, thật đáng quý trọng và thương mến trong tấm lòng của tác giả. Hình ảnh ấy gắn với bếp lửa bằng một vẻ đẹp bình dị trong đời sống thường nhật. Bếp lửa gợi lên những kỷ niệm ấm nồng, thắm thiết mà rất đỗi thiêng liêng, trọn đời nâng đỡ và dưỡng nuôi tâm hồn.

Cảm nhận bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt – Mẫu 3

Trong những năm tháng cuộc chiến tranh, bên cạnh những bài văn, bài thơ cổ vũ ý thức chiến đấu của dân tộc bản địa còn có những lời thơ da diết viết về tình thân, về quê nhà mình. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, tác phẩm đã gợi lại cho người chiêm ngưỡng và thưởng thức những cảm hứng dạt dào về mái ấm gia đình, về những kí ức thân thương bên bà.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa chờn vờn trong sương mai, nó như vừa mới đây cũng vừa như trong kí ức xa xôi mà tác giả chợt nghĩ đến hay khắc khoải trong phút giây chợt nhớ về. Bếp lửa ấy được nhen nhóm từ đôi bàn tay gầy, được nâng niu toàn vẹn nhất, vị nồng đượm của khói bay trên bếp vẫn còn đó, trong miền kí ức của cháu thơ. Và sâu trong hình ảnh ấy chính là bóng hình của người bà kính yêu, nghĩ về bếp lửa cháu nhớ đến bà, cháu thương những năm tháng bà tần tảo, quyết tử. cảm nhận của em về bài thơ bếp lửa của bằng việt “ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa ” Bao kỉ niệm tuổi thơ bỗng sống dậy trong trái tim đong đầy nỗi nhớ trong cháu.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Cuộc sống khốn khó những năm tháng ấy có lẽ rằng là điều mà cháu không thể nào quên dù lúc ấy vừa lên bốn. Cái đói, cái nhọc nhằn khó khăn vất vả được biểu lộ qua hình ảnh “ khô rạc ngựa gầy ”, mùi khói trở thành thứ mùi vị quen thuộc lúc ấy. Khói hun nhèm lên mắt, vị khói khiến sống mũi cháu cay cay hay chính những khó khăn vất vả, đói khổ của năm tháng xưa khiến khi nghĩ về mà lòng nôn nao vừa xúc động, vừa xót xa.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê nhà, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa quen thuộc. “ Tám năm ” – khoảng chừng thời hạn đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu truyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở lại, khơi dậy những câu truyện xưa. Những vần thơ lúc này đây chứa chan những yêu thương, thấm đẫm nỗi niềm xúc động :

“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”

Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như vậy. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo ngại. Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có khó khăn vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan. Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thế đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ hoàn toàn có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Chiến tranh không những khiến bao mái ấm gia đình phải chia xa mà nó còn tàn phá sự yên bình của bao làng quê, thôn xóm. Hai bà cháu người trẻ nhỏ, người già yếu được hàng xóm trợ giúp dựng lại túp lều nhỏ, có chỗ che mưa, che nắng. Bao khốn khổ là thế mà bà có khi nào chịu phó mặc, luôn vững lòng, đinh ninh.

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”.

Qua từng dòng thơ, ta càng cảm nhận được hình ảnh người bà kiên cường, chẳng quản ngại quyết tử, vẫn luôn tin yêu vào ngày mái ấm gia đình sum vầy, ngày quốc gia hoà bình, thống nhất.

“Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Những dòng thơ cuối nghe sao xúc động đến quái gở. Cháu nay đã lớn, trên hành trình dài cuộc sống cháu phải xa bếp lửa, xa bà, xa quê nhà mình. Cháu đến một nơi mới, nơi ấy có tiện lợi, những niềm vui mới, nhưng trong tim cháu vẫn luôn hướng về bà, về quê nhà mình. Nơi ấy có làm lũ, có nhọc nhằn, nguy hiểm và có tất thảy sự yêu thương suốt năm tháng tuổi thơ. Chính quê nhà, chính tình thân đã nâng đỡ tâm hồn cháu, nâng đỡ cuộc sống cháu trong mỗi bước đường đời. Bằng lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình, hình ảnh giàu giá trị hình tượng cùng lối viết phối hợp giữa tự sự, trữ tình và biểu cảm, tác giả đã phát minh sáng tạo nên một bài thơ đầy xúc cảm. Đọc bài thơ, em mới thêm hiểu cảm xúc của những người con xa quê mồng ngóng ngày sum vầy, thêm trân trọng những khoảnh khắc lao động, sum vầy bên mái ấm gia đình mình, thêm yêu quê nhà, quốc gia, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn mình qua bao khoảnh khắc thời hạn.

Video hướng dẫn cảm nhận của em về bài thơ bếp lửa

Đánh Giá bài cảm nhận của em về bài bếp lửa

Đánh Giá – 9.3

9.3

100

Hướng dẫn cảm nhận của em về bài bếp lửa không thiếu chi tiết cụ thể !

User Rating: 4.5 ( 1 votes)

Source: https://dvn.com.vn
Category : Nhà Bếp

Alternate Text Gọi ngay