Trình Tự Các Nghi Lễ Trong Ngày Cưới Cô Dâu Chú Rể Cần Biết

Thủ tục những nghi lễ trong ngày cưới của Nước Ta được thực thi với không thiếu trình tự những nghi thức là lễ dạm ngõ, lễ đám cưới và lễ cưới :

I. LỄ DẠM NGÕ

Đây là một lễ nhằm mục đích chính thức hóa quan hệ hôn nhân gia đình của hai mái ấm gia đình. Được tổ chức triển khai khi được sự chấp thuận đồng ý của nhà gái, nhà trai sẽ đem lễ sang. Lễ vật được dâng lên bàn thờ cúng tổ tiên. Sau đó, nhà trai sẽ đem về phần lễ mà nhà gái đã lưu lại, được gọi là lại quả .

Đối với lễ này, thường người Nước Ta vẫn thực thi theo khuôn mẫu truyền thống :

Thành phần tham gia :

Nhà trai : Bố, mẹ, chú rể, người mối ( nếu có ) .

Nhà gái : Cả mái ấm gia đình nhà gái .

Trang phục :

Trai : complet

Gái : áo dài Nếu do điều kiện kèm theo không có thì mặc những bộ quần áo đẹp nhất mà mình có .

Phương tiện đi lại :

Ở thành phố : tốt nhất là thuê một chuyến xe con 5 chỗ ( vừa đủ 4 người nhà trai đi ) hoặc đi xe máy .

Ở nông thôn : nếu xa hoàn toàn có thể đi bằng xe máy, nếu gần : đi bộ .

Lễ vật của nhà trai : Trầu cau và chè

Nhưng số lượng phải tính chẵn. ( Ví dụ : 2 gói chè, hai chục cau ) .

Đón tiếp ở nhà gái : Dọn dẹp nhà cửa sạch, đẹp. Ăn mặc sang chảnh. Khi đoàn khách nhà trai đến, nghênh tiếp niềm nở. Tiếp khách bằng trà ( nếu có trà thơm là tốt nhất ). Khi nhà gái đồng ý chấp thuận nhận lễ vật, mang đặt lên bàn thờ cúng thì cuộc lễ coi như kết thúc. Sau đó hai bên hoàn toàn có thể ngồi lại chuyện trò đôi chút .

Trình tự nghi lễ trong ngày cưới

II. LỄ ĂN HỎI

Có thể nói rằng, lễ đám cưới là sự thông tin chính thức về sự hứa giá thú của hai mái ấm gia đình, hai họ. Nó lưu lại một chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân gia đình : Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi .

Thành phần tham gia

Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình, bạn bè và một số thanh niên chưa vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp). Thường thì người bê tráp là nữ nhưng do mâm quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số người bê tráp là số lẻ, 3, 5, 7, 9 hoặc 11.

Nhà gái : Cô dâu, cha mẹ, ông bà, mái ấm gia đình và một số ít nữ chưa chồng để đón lễ đám cưới, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm .

Lễ vật

– Cau tươi : 1 buồng

– Bánh cốm : 200 chiếc

– Hạt sen : 2 kg

– Chè : 2 kg

– Rượu : 2 chai

– Thuốc lá : 2 tút

– Bánh su xê ( phu thê ) : 200 hoặc 20

– Phong bì tiền : 2 chiếc

“Tiền mặt”: Đây là vấn đề đang được tranh cãi nhiều: có ý kiến cho rằng, lễ vật bằng tiền thì quá thô, thậm chí còn có người cho rằng, làm như vậy là xúc phạm đến nhà gái,… có người thì lại cho rằng, vấn đề là ở cách đưa tiền: làm thế nào để tiền trở thành một lễ vật chứ không phải là một phương tiện trao đổi, mua bán như chức năng vốn có của nó.

Nếu số tiền đó được đổi thành những đồng xu tiền mới tinh ( như tiền mừng tuổi mà ông bà, cha mẹ tất cả chúng ta thường làm ) và được bao bởi một phong bì đẹp màu đỏ, có in chữ “ song hỷ ” thì người nhận lễ sẽ không bị mặc cảm là mình đã nhận tiền theo nghĩa đen nữa .

Rước lễ vật:Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Dù dùng phương tiện đi lại là: ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc.

Những lễ vật dẫn cưới theo phong tục truyền thống đều biểu lộ được ý nghĩa trên và thời nay người Nước Ta vẫn tuân thủ .

Trang phục: trang phục cho cô dâu (tốt nhất là một bộ áo dài, vừa có thể mặc trong lễ cưới, vừa có thể mặc ở những dịp lễ hội sau này). Nếu kinh tế nhà trai khá giả có thể sắm cho cô dâu tương lai một trong những đồ trang sức sau: xuyến, vòng, hoa tai… Chú rể thì comple, cà vạt.

Tiếp khách: Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc trà. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc.

Trách nhiệm của cô dâu: Phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ (đối với những nhà không theo đạo Thiên chúa). Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng bàn để rón nước mời khách.

Nhà gái: sau khi nhận lễ rồi đưa lên bàn thờ thắp hương, nhà gái sẽ lấy ra mỗi thứ trong đồ lễ ăn hỏi một ít để “lại quả”. Lưu ý là đối với cau thì phải xé chứ không được dùng dao để cắt. Khi nhà trai nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại.

Biếu trầu: Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,… ý nghĩa của tục này là sự loan báo: Cô gái đã có nơi có chỗ.

Trình tự nghi lễ trong ngày cưới

III. LỄ CƯỚI

Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến độ tiến tới hôn nhân gia đình, là hình thức liên hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai mái ấm gia đình, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Do đó, cả xưa và nay, mọi người đều rất coi trọng. Đây cũng chính là nghi lễ được dư luận xã hội chăm sóc nhiều hơn cả. Lễ cưới chỉ được tổ chức triển khai sau khi đã được chính quyền sở tại cấp giấy ghi nhận đăng ký kết hôn .

Các nghi lễ cưới theo văn hóa truyền thống Nước Ta lúc bấy giờ đều tuân thủ những lễ sau đây ( tùy ở những vùng miền khác nhau có sự biến hóa chút ít để tương thích hơn nhưng quy mô chung không hề phá vỡ )

Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái để đón dâu (như ở dưới sẽ nêu). Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp phần với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn. Với đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn (bố mẹ chồng sẽ trao lúc làm lễ ở nhà gái trước đông đủ quan viên được mời – nội ngoại nhà gái), cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.

Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu đã đến.

Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật (các quả hộp: trầu cau, rượu, bánh phu thê và nếu gia đình nhà trai có điều kiện thì lễ vật sẽ thêm các món khác – ví như nem chả, bánh kem,…). Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Cha mẹ (nhà gái) cô dâu tặng quà cho con gái mình. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.

Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.

Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn giản, ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy lễ tơ hồng rồi vái nhau.

Trải giường chiếu: mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, khi cô dâu chú rể vào phòng tân hôn, bà này sẽ trải đôi chiếu lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận…

Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống

Trình tự nghi lễ trong ngày cưới

Tiệc cưới: dù đám cưới lớn hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nông thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái “tục” của sự ăn lấn át mất cái “thiêng” của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.

Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lợn. cha mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay, nhưng trường hợp này rất hiếm.

=> Mua nhẫn cưới tại đây nha mọi người : https://dvn.com.vn/m/nhan-cuoi-nhan-cap

Hy vọng bài viết trên đây sẽ giúp những cô dâu chú rể nắm rõ được những nghi lễ quan trọng trong đám cưới của mình .

Source: https://dvn.com.vn
Category: Hỏi Đáp

Alternate Text Gọi ngay