Hồi giáo – Wikipedia tiếng Việt
Hồi giáo hay còn gọi là đạo Hồi hay là đạo Islam[note 1](tiếng Ả Rập: الإسلام al-‘islām) là một tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, độc thần, dạy rằng chỉ có một Thượng Đế (Allah) và Muhammad là sứ giả của Thượng đế.[1][2] Đây là tôn giáo lớn thứ hai thế giới[3] với hơn 1 tỷ người theo tương đương 15% dân số thế giới,[4] và họ thường được gọi là người Hồi giáo.[5] Hồi giáo chiếm phần lớn dân số ở 50 quốc gia.[3] Hồi giáo dạy rằng Thượng Đế là lòng thương xót, toàn năng và độc nhất,[6] và Chúa đã hướng dẫn loài người qua các sứ giả, thánh thư được tiết lộ và các dấu hiệu tự nhiên.[2][7] Kinh sách chính của Hồi giáo là Kinh Qur’an, được người Hồi giáo xem là lời nguyên văn của Thiên Chúa, và các giáo lý và ví dụ quy phạm (được gọi là sunnah, bao gồm các ghi chép được gọi là hadith) của Muhammad (570 – 8 tháng 6 632).
Người Hồi giáo tin rằng Hồi giáo là phiên bản hoàn chỉnh và phổ quát của một đức tin nguyên thủy đã được tiết lộ nhiều lần trước đây thông qua các tiên tri bao gồm Adam, Abraham, Moses và Jesus.[8][9][10] Người Hồi giáo coi Kinh Qur’an trong tiếng Ả Rập gốc của nó là sự mặc khải không thay đổi và cuối cùng của Thiên Chúa.[11] Giống như các tôn giáo Abraham khác, Hồi giáo cũng dạy về một ngày phán xử cuối cùng với người tốt sẽ được lên thiên đường và người xấu sẽ bị trừng phạt tại địa ngục.[12][13] Các khái niệm và thực hành tôn giáo bao gồm Năm trụ cột Hồi giáo, là những hành vi tôn giáo bắt buộc và tuân theo luật Hồi giáo (sharia), ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống và xã hội, từ ngân hàng và phúc lợi cho phụ nữ và môi trường.[14][14][15] Các thành phố Mecca, Medina và Jerusalem là nơi có ba địa điểm linh thiêng nhất trong đạo Hồi.[16]
Bên cạnh những câu chuyện mang tính thần học,[14][17][18] Hồi giáo được lịch sử cho là có nguồn gốc từ đầu thế kỷ thứ 7 sau CN tại Mecca,[19] và đến thế kỷ thứ 8 các vua Nhà Omeyyad kéo dài từ Iberia ở phía tây đến Sông Indus ở phía đông. Thời đại hoàng kim Hồi giáo đề cập đến thời kỳ truyền thống có niên đại từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 13, trong thời đại Abbasid Caliphate, khi phần lớn thế giới Hồi giáo trong lịch sử đang trải qua thời kỳ hưng thịnh về khoa học, kinh tế và văn hóa.[20][21][22] Sự mở rộng của thế giới Hồi giáo liên quan đến nhiều caliphate khác nhau, như Đế chế Ottoman, thương nhân và việc chuyển đổi sang Hồi giáo bằng các hoạt động truyền giáo (dawah).[23]
Bạn đang đọc: Hồi giáo – Wikipedia tiếng Việt
Hầu hết người Hồi giáo là thuộc một trong hai giáo phái ; Sunni ( 75-90 % ) [ 24 ] hoặc Shia ( 10-20 % ). [ 25 ] Khoảng 13 % người Hồi giáo sống ở Indonesia, vương quốc hầu hết Hồi giáo lớn nhất ; [ 26 ] 31 % người Hồi giáo sống ở Nam Á, [ 27 ] dân số Hồi giáo lớn nhất quốc tế ; [ 28 ] 20 % tại Trung Đông, Bắc Phi, [ 29 ] nơi đây là tôn giáo thống trị ; [ 30 ] và 15 % ở châu Phi cận Sahara. [ 31 ] Các hội đồng Hồi giáo có quy mô cũng được tìm thấy ở Châu Mỹ, Kavkaz, Trung Á, Trung Quốc, Châu Âu, Khu vực Đông Nam Á lục địa, Philippines và Nga. [ 32 ] [ 33 ] Hồi giáo là tôn giáo lớn tăng trưởng nhanh nhất trên quốc tế. [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ]
Trong lịch sử, đạo Hồi ra đời vào thế kỷ 7 tại bán đảo Ả Rập, do Thiên sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua thiên thần Jibrael (Gabriel). Đạo Hồi chỉ tôn thờ Thánh Allah Đấng Tối cao, Đấng Duy Nhất (tiếng Ả Rập: الله Allāh). Đối với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh Qur’an (còn viết là Koran) qua Thiên thần Jibrael.
Islam theo tiếng Ả rập có nghĩa là phục tùng, vâng mệnh, tuân theo, ngoài những Islam còn là danh từ ghép từ 2 chữ Ikhlas và Salam ( Bình an, Thuần khiết ). Theo Hồi giáo, danh từ Islam được Allah dùng để gọi tôn giáo mà Ngài ban xuống được tìm thấy trong kinh Quran nên người Hồi giáo sử dụng tên này cho tôn giáo của mình
Mục Lục
Các tên gọi và cụm từ tương quan[sửa|sửa mã nguồn]
Biểu tượng của Hồi giáo được quốc tế biết đến
Nguyên nghĩa của Hồi giáo trong tiếng Ả Rập là ‘Islam’ và có nghĩa là “vâng mệnh, quy phục Thượng đế”. Người theo Islam, trong tiếng Ả Rập gọi là ‘Muslim’, do đó có các chữ muslim, moslem tiếng Anh và musulman tiếng Pháp, nghĩa là “người từ Mosul“. Danh từ “Hồi giáo” xuất xứ từ dân tộc Hồi Hột. Hồi Hột là nước láng giềng phương bắc của Trung Quốc từ năm 616 đến 840. Lúc rộng lớn nhất lãnh thổ họ đông đến Mãn Châu, tây đến Trung Á [37], và họ đã giúp nhà Đường dẹp được loạn An Lộc Sơn. Với thời gian, cách gọi đổi thành “Hồi Hồi“. Tài liệu xưa nhất dùng danh từ “Hồi Hồi” là Liêu Sử, soạn vào thế kỷ 12.[38] Đời nhà Nguyên (1260 – 1368), tại Trung Quốc, cụm từ “người Hồi Hồi” được dùng để chỉ định người Trung Á, bất luận theo tín ngưỡng nào. Đến đời Minh (1368 – 1644), cụm từ “người Hồi Hồi” mới dần dần đổi nghĩa để chỉ định tín đồ Islam.[38]
Trước đó, người Hán thường gọi Islam là Đại Thực giáo hay đạo A-lạp-bá.[39] “A-lạp-bá” (阿拉伯, bính âm: Ālābó, đọc từ Arabo) là phiên âm tiếng Hán của danh từ “Ả Rập“. “Đại Thực” là phiên âm của chữ “Tazik” (大食, tiếng Hán trung cổ: dhɑ̀ jhiək), tiếng Ba Tư dùng gọi người “Ả Rập” (nhiều khả năng cũng có thể liên quan đến bộ tộc Tajik), vì Tazik là tên một bộ tộc người Ả Rập tiếp xúc nhiều với Ba Tư thời xưa.[40]
Do “Hồi Hồi” là tên gọi chủng tộc, không phải là dịch nghĩa của chữ Islam hay một tôn chỉ của Islam, nên một số người hạn chế dùng danh từ “Hồi giáo” hay “đạo Hồi”. Trường hợp các tên “Đại Thực” hay “A-lạp-bá” cũng thế. Bởi thế, tại Trung Quốc, ngay từ năm 1335, thời nhà Nguyên, đã có người đề ra cụm từ Thanh Chân giáo (清真教) để thích nghi hơn với tiếng Hán[41]. Đề nghị này được hưởng ứng rộng rãi nên ngày nay Thanh Chân giáo là cụm từ được ghi trong nhiều từ điển tiếng Hán [42]. Tại Trung Quốc ngày nay cũng có nhiều “Thanh Chân tự” (清真寺) (thánh đường Islam) và “Thanh Chân thực đường” (清真菜堂) (quán ăn, nhà ăn halal).
Ngày nay tại Trung Quốc người ta cũng thường gọi Islam theo phiên âm là Y Tư Lan giáo (伊斯蘭教 Yīsīlán jiào).[43]. Cơ quan đại diện Islam chính thức tại Trung Quốc có tên là “Hiệp hội Y Tư Lan giáo Trung Quốc” (中国伊斯兰教协会 Zhōngguó Yīsīlánjiào xiéhuì) được ra đời ngày 11 tháng 5 năm 1953, trực thuộc chính quyền và có trụ sở tại Bắc Kinh. Wikipedia Trung văn cũng dùng danh từ Y Tư Lan giáo.
Nhiều tài liệu, văn bản trong tiếng Việt từ nhiều năm nay cũng dùng danh từ đạo Islam hay đạo Ixlam. Tuy nhiên, nhiều tín hữu Islam nói tiếng Việt vẫn dùng danh từ Hồi giáo vì đã quen nghĩ đến, nói đến danh từ này một cách tôn kính.
- Jesus đối với người Hồi giáo là một sứ giả rất được kính mến, nhưng họ không tin Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ là một con người, một sứ giả như mọi sứ giả khác vì theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa không có con, như Thiên kinh Qur’an đã phán:
- Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đời? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật.” (trích 6:101)
- Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eve không phải là nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai khác; ngoại trừ Allah.
Sự khác nhau giữa Cựu Ước, Tân Ước và Thiên Kinh Qur’an trên quan điểm Đấng Toàn Năng như sau :Cựu Ước :
Thiên Chúa phát minh sáng tạo con người theo hình ảnh mình .
sách Sáng Thế 1 : 27 .
Tân Ước :
Ta và Cha ta là một .
Tân ước Gioan 10 : 30 .
Thiên Kinh Qu’ran :
Ngài là Đấng Duy Nhất. Allah Đấng Độc Lập và Cứu Rỗi. Ngài chẳng sinh ra ai và cũng chẳng ai sinh ra Ngài. Không một ai đồng đẳng với Ngài .
Thiên Kinh Qu’ran 112 : 1-4 .
Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur’an cũng liệt kê mười điều tựa như :
- Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah).
- Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
- Tôn trọng quyền của người khác.
- Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
- Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*).
- Cấm ngoại tình.
- Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
- Hãy cư xử công bằng với mọi người.
- Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
- Hãy khiêm tốn
( * ) Trường hợp đặc biệt quan trọng được phép giết người mà không bị trọng tội là :1 ) Trong khi kháng cự hoặc chiến đấu chống lại những kẻ lùng giết người đạo mình nhằm mục đích cưỡng bách bỏ đạo. Nhưng nếu thắng lợi, phải noi gương thiên sứ Muhammad, tha thứ và đối xử nhân đạo với phần đông kẻ bại trận .2 ) Giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành .Ngoài ra Fan Hâm mộ Hồi giáo có một số ít luật lệ :
- Một lần trong đời, họ phải hành hương về thánh địa Mecca, nhưng với điều kiện họ không vay mượn hay xin phí tổn. Trước khi đi, họ phải lo cho gia đình vợ con đầy đủ những nhu cầu cần thiết trong thời gian họ vắng mặt hành hương.
- Nghiêm cấm ăn máu, thịt con vật đã chết trước khi được cắt tiết theo nghi thức; không được ăn thịt lợn vì lợn là loài vật ô uế.[44]
- Nghiêm cấm uống rượu và các thức uống lên men.
- Nghiêm cấm cờ bạc.[45]
- Nghiêm cấm gian dâm và trai gái quan hệ xác thịt trước khi cưới hỏi.
- Nghiêm cấm ăn những con vật ăn thịt sống hay ăn tạp (như chó, mèo, chuột, v.v.).
- Người Hồi giáo chỉ được ăn thịt halal, tức là thịt đã được giết mổ theo nghi thức của đạo Hồi. Tuy nhiên, trong trường hợp tuyệt đối không có gì ăn, họ được ăn mọi thứ để duy trì sự sống.
- Hàng năm phải thực hiện tháng ăn chay Ramadan để tưởng nhớ và biết thương xót người nghèo. Tháng này tính theo lịch Mặt Trăng. Trong tháng này, khi còn ánh sáng Mặt Trời, họ không được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này, con người phải tha thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có mang không phải thực hiện Ramadan.
- Hồi giáo nghiêm cấm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo, tín đồ Hồi giáo không được phép chỉ trích cũng như phán xét người khác. Đó là việc của Allah Đấng Toàn Năng
Trên phương diện khoa học nhân văn, Hồi giáo là một tôn giáo sinh ra vào thế kỷ thứ 7, dựa trên những nền tảng có sẵn của Do Thái giáo và Kitô giáo. Đôi khi người ta cũng gọi Hồi giáo là đạo Muhammad ( Muhammadanism ), theo tên của đức sáng tổ .Tuy nhiên, với những Fan Hâm mộ Hồi giáo, đạo của họ là đạo thường hằng trong thiên hà, do Thượng đế tạo ra, và vì Thượng đế vốn bất sinh bất diệt nên đạo của Ngài cũng bất sinh bất diệt ; còn Muhammad đơn thuần chỉ là một người ” thuật nhi bất tác “, thuật lại cho mọi người những mặc khải của Thượng đế mà thôi. Trong ý niệm của những Fan Hâm mộ, Hồi giáo không khởi sinh từ Muhammad. Với họ, con người tiên phong do Thượng đế tạo ra, tức Adam, là tín đồ Hồi giáo tiên phong, và ngay từ thuở hồng hoang, khắp đất trời đã là một vương quốc Hồi giáo. Không chỉ người mà thôi, mà toàn bộ muông thú, cỏ cây đều tuân theo Hồi giáo cả. Sở dĩ Adam và loài người được xây đắp là để đại diện thay mặt Thượng đế quản lý những loài thảo cầm ở nhân gian. Và vì đẳng cấp và sang trọng của loài người cao như vậy tự do ý chí nên yếu tố phát sinh từ đây. Sự tự do ý chí nhiều lúc dẫn đến những lầm lạc, lầm lạc dẫn đến rời bỏ Thượng đế, và xa dần chính nghĩa. Khi Adam, con người tiên phong và cũng là Thiên Sứ tiên phong, lìa trần, con cháu ông, không còn ai chỉ bảo, càng lún sâu vào con đường tối. Do thế mà Thượng đế lại phải gửi xuống nhân gian những vị Thiên Sứ mới để nhắc lại Thiên Đạo, đưa loài người về đúng nẻo ngay. Trước Muhammad, đã có hằng trăm ngàn Thiên Sứ giảng lời mặc khải ở trần gian, trong đó có Noah, Abraham ( Ibrohim ), Moses ( Musa ), David ( Dawud ) và Jesus ( Ysa ) … Tuy nhiên, một là do loài người u mê chưa tỉnh ngộ, hai là do sự ngoan cố, tự cao, tự đại của con người, mà chính nghĩa vẫn bị bóp méo như thường. Rốt cuộc, đến thế kỷ 7, Thượng đế khải thị cho Muhammad, và biến ông trở thành vị Thiên Sứ tuyệt vời và hoàn hảo nhất nhất trước nay, hơn hẳn những Thiên Sứ nhiệm kỳ trước đó. Do đó mà đạo của Muhammad truyền bá cũng là tuyệt vời nhất, không hề bị bóp méo như trước kia. Muhammad là vị Thiên Sứ sau cuối, và bất kể ai dám xưng Thiên Sứ sau Muhammad đều là kẻ tà giáo. Như đã thấy ở trên, Abraham ( Ibrohim ) cử xuống cho Do Thái Giáo, và Giêsu ( Ysa ) cử xuống cho Kitô giáo, đều có vị trí Thiên sứ trong Hồi giáo. Như vậy, Thiên Chúa mà ba tôn giáo này thờ phượng chỉ là một .
Từ Allah trong tiếng Ả Rập mang nghĩa là Thượng đế. (Những Kitô hữu người Ả Rập khi cầu nguyện cũng gọi Đức Chúa Cha là Allah). Thượng đế dĩ nhiên phải cao hơn Thánh và là duy nhất, vả lại trong đạo Hồi chính thống hoàn toàn không có khái niệm Thánh. Người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo cũng được tín đồ Hồi giáo tương đối coi trọng và gọi là Giáo Dân Thánh Thư (People of The Book). Kinh Thánh Kitô giáo cũng là sách thiêng trong Hồi giáo, có điều người ta coi nó không đầy đủ và hoàn thiện như Koran.
Năm cột trụ của Hồi giáo[sửa|sửa mã nguồn]
Năm điều cơ bản của đạo Hồi :
- Tuyên đọc câu Kalimah Sahadah: Ash Ha Du Allah Ila Ha Il Lallah Wa Ash ha du an na Muhammader rosu Lullah, có nghĩa là Tôi công nhận Allah là thượng đế duy nhất và ngoài ra không có ai khác cả và tôi công nhận Muhammad là vị sứ giả cuối cùng của Ngài
- Cầu nguyện ngày năm lần: Buổi bình minh, trưa, xế trưa, buổi hoàng hôn và tối.
- Bố thí.
- Nhịn chay tháng Ramadan.
- Hành hương tại Mecca.
Sự phân loại Hồi giáo[sửa|sửa mã nguồn]
Các nhánh của Hồi giáo
Bài cụ thể : Sunni
Hồi giáo dòng Sunni chiếm 75%–90% số người theo Đạo Hồi.[46] Dòng Sunni cũng có tên Ahl as-Sunnah nghĩa là “người truyền thống [của Muhammad]”.[47]
Người theo Sunni tin rằng bốn Khalip tiên phong là những người thừa kế hợp pháp của Muhammad ; vì Chúa không chỉ định bất kể chỉ huy đặc biệt quan trọng nào để thừa kế ông và những người này được bầu ra. Người theo Sunni tin rằng bất kể ai là người công chính và chỉ hoàn toàn có thể là một khalip nhưng họ phải hành vi theo kinh Qur’an và Hadith ( tuyển tập lời dạy của Muhammad ) .Sunni theo Quran, sau đó là Hadith. Sau đó, những yếu tố pháp lý không được tìm thấy trong Kinh Qur’an hoặc Hadith, họ theo bốn madh’habs ( phe phái tư tưởng ) : Hanafi, Hanbali, Maliki và Shafi’i, được xây dựng xung quanh những lời dạy tương ứng của Abū Hanifa, Ahmad bin Hanbal, Malik ibn Anas và al-Shafi ‘ i .
Tất cả bốn chấp nhận tính hợp pháp của nhau và Đạo Hồi có thể chọn bất kỳ một để theo.[48] Salafi (hay Ahl al-Hadith (Arabic: أهل الحديث; The people of hadith), hoặc từ miệt thị Wahhabi theo cách gọi của đối thủ họ) là một phong trào Hồi Giáo cực kỳ đề cao sự “chính thống” đã đưa lớp người Hồi Giáo đầu tiên là một hình mẫu điển hình.[49]
Bài chi tiết cụ thể : ShiaShi’a chiếm 10 – 20 % số người theo đạo Hồi và là nhánh lớn thứ 2. [ 25 ]
Trong khi Sunni tin rằng Muhammad không chỉ định một người kế nhiệm và do đó kế nhiệm ông sẽ được chọn bởi cộng đồng thì Shia tin rằng trong lần hành hương cuối cùng của Muhammad đến Mecca, ông đã chỉ định con nuôi của ông là Ali ibn Abi Talib, làm người kế vị trong Hadith of the pond of Khumm. Và thế là họ tin rằng Ali ibn Abi Talib là Imam (lãnh đạo) đầu tiên, và bác bỏ tính hợp pháp của các khalip Hồi giáo trước Abu Bakr, Uthman ibn al-Affan và Umar ibn al-Khattab.
Hồi Giáo Shia có nhiều nhánh, nhánh lớn nhất là Twelvers tăng trưởng phần đông ở Iran, Iraq, Azerbaijan, Bahrain, Ấn Độ, Pakistan và Liban. Tiếp theo là Zaidis và Ismaili. Sau cái chết của Imam Jafar al-Sadiq ( cháu lớn của Abu Bakr và Ali ibn Abi Talib ) được xem là lãnh tụ thứ sáu của người Shia, Ismailis khởi đầu theo con trai ông Isma’il ibn Jafar và Twelver Shia’s ( Ithna Asheri ) mở màn theo con trai khác của ông Musa al-Kazim làm Imam thứ 7. Zaydis theo Zayd ibn Ali, chú của lãnh tụ Jafar al-Sadiq, là lãnh tụ thứ 5 .Các nhóm khác nhỏ hơn gồm Bohra và Druze, [ 50 ] cũng như Alawites và Alevi .
Bài chi tiết cụ thể : SufismSufism là một nhánh Hồi giáo thiên về khunh hướng thần bí, nội tâm của Islam nhằm mục đích mục tiêu đạt được sự triển khai xong về đạo đức, sự hành đạo và đức tin ( al-ihsan ) và thân thiện với Đấng Tối cao Allah. Do đặc tính linh động và nghiên về khunh hướng thần bí nên Sufism là nhánh Hồi giáo tiên phong mở đường trong công cuộc truyền bá Islam
Các dòng khác[sửa|sửa mã nguồn]
Thánh địa Mecca[sửa|sửa mã nguồn]
Theo lao lý của hồi giáo, mỗi giáo dân tối thiểu một lần trong cuộc sống phải hành hương về nhà thời thánh Mecca bằng chính kinh phí đầu tư của bản thân mình và trước khi đi phải sẵn sàng chuẩn bị đồ ăn thức uống cho người thân trong gia đình ( những người ở nhà, không đi hành hương ) trong thời hạn mà họ đi vắng. Vào tháng Ramadan, người Hồi giáo hành hương về đây ( và chỉ có người Hồi giáo mới được về đây ). [ 51 ] [ 52 ] Sau khi hành hương đến Mecca, Fan Hâm mộ đạo Hồi sẽ có được thương hiệu là ” Haj ” hoặc ” Haji ” .
- Hành hương tại Mecca, Ả Rập Saudi
- Thánh địa Mecca năm 1850
- Tín đồ đi lễ quanh đền Kaaba
Inferno (thế kỷ 19) của [53]Bức tranh minh họa(thế kỷ 19) của William Blake cho thấy Muhammad đang phanh ngực đã bị một con quỷ rạch đôi để tượng trưng cho vai trò của ông là một ” tiên tri giả “.Sự chỉ trích Hồi giáo đã sống sót từ quy trình tiến độ hình thành của Hồi giáo. Những lời chỉ trích khởi đầu đến từ những tác giả Kitô giáo, nhiều người trong số họ xem Hồi giáo là một dị giáo của Kitô giáo hoặc một hình thức thờ hình tượng và thường lý giải nó bằng những từ ngữ khải huyền. [ 54 ] Sau đó Open những lời chỉ trích từ chính quốc tế Hồi giáo, và cả từ những nhà văn Do Thái và từ những Kitô hữu thuộc giáo hội. [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] Các yếu tố tương quan đến tính xác nhận và đạo đức của Kinh Qur’an, cuốn sách thánh Hồi giáo, cũng được những nhà phê bình đàm đạo. [ 58 ] [ 59 ]Hình ảnh phỉ báng Muhammad, bắt nguồn từ những diễn đạt đầu thế kỷ thứ 7 của Nhà thờ Byzantine, [ 60 ] Open trong bài thơ sử thi thế kỷ 14 Hài kịch thần thánh của Dante Alighieri. [ 61 ] Trong tác phẩm, Muhammad Open trong vòng tròn âm ti thứ tám, cùng với Ali. Dante không đổ lỗi cho đạo Hồi nói chung, nhưng buộc tội Muhammad về việc ly giáo, bằng cách xây dựng một tôn giáo khác sau Kitô giáo. [ 61 ] Mặt khác, Giám mục Chính thống Hy Lạp Paul of Antiorch đồng ý Muhammed là một nhà tiên tri, nhưng không phải trách nhiệm của ông là phổ quát. Vì luật của Chúa Kitô tiêu biểu vượt trội hơn luật Hồi giáo, Muhammad chỉ được lệnh tới khu vực người Ả Rập, khu vực mà chưa một nhà tiên tri nào được gửi đến. [ 62 ]
Các bài viết xin lỗi, được cho là của Abdullah Ibn al-Muqaffa, không chỉ bảo vệ thuyết Manichae chống lại Hồi giáo, mà còn phê phán khái niệm Hồi giáo về Thiên Chúa. Theo đó, vị thần trong kinh Qu’ran bị coi là một thể ma quỷ bất công, chuyên chế, phi lý và xấu xa, người “chiến đấu với con người và tự hào về chiến thắng của mình” và “ngồi trên ngai vàng, từ đó Ngài giáng trần”.[63][64]
Kể từ sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, Hồi giáo đã phải đương đầu với những lời chỉ trích về kinh sách và giáo lý của nó là một nguồn đáng kể của chủ nghĩa khủng bố và tư tưởng khủng bố. [ 65 ] [ 66 ]Những chỉ trích khác tập trung chuyên sâu vào câu hỏi về quyền con người ở những vương quốc đa phần Hồi giáo tân tiến, và đối xử với phụ nữ trong lao lý và thực hành thực tế Hồi giáo. [ 67 ] [ 68 ] Trước khuynh hướng đa văn hóa gần đây, ảnh hưởng tác động của Hồi giáo so với năng lực đồng điệu của người Hồi giáo ở phương Tây đã bị chỉ trích. [ 69 ] Cả trong đời sống công cộng và cá thể của mình, những người khác đều phản đối đạo đức của Muhammad, do đó cũng phản đối sunnah như một hình mẫu. [ 57 ] [ 70 ]Người Tatars theo Tengri giáo chỉ trích Hồi giáo là một tôn giáo semitic, mà đã buộc người Thổ Nhĩ Kỳ phải phục tùng một nền văn hóa truyền thống ngoại lai. Sự khuất phục và khiêm nhường, hai thành phần quan trọng của tâm linh Hồi giáo, bị coi là những thất bại lớn của Hồi giáo, không phải là phẩm chất tốt. Hơn nữa, vì Hồi giáo đề cập đến lịch sử vẻ vang semitic như thể đó là lịch sử vẻ vang của cả trái đất, nhưng coi thường những thành phần của những nền văn hóa truyền thống và tâm linh khác, cách tiếp cận quốc tế của Hồi giáo được coi là một mối rình rập đe dọa. Nó cũng cho Imams một thời cơ để tuần hành chống lại chính người dân của họ dưới biểu ngữ của Hồi giáo quốc tế. [ 71 ]
Các vương quốc có số dân theo Hồi giáo[sửa|sửa mã nguồn]
Tỷ lệ dân mỗi nước theo đạo Hồi
Một số văn hóa ảnh hưởng từ Hồi giáo
Cổng vòm, mái tròn, có tháp nhọn
- ^ Islam trong tiếng Anh, khác nhau về âm tiết thứ nhất hay âm tiết thứ hai có trọng âm hay không, s là z/s/ a được phát âm ɑː/æ/ə/Có mười cách phát âm củatrong tiếng Anh, khác nhau về âm tiết thứ nhất hay âm tiết thứ hai có trọng âm hay không, làhay, và cho dùđược phát âmhay ( khi trọng âm ở âm tiết thứ nhất ) ( Merriam Webster ). Phổ biến nhất là và ..
- “Islam in Traditional China. A short history to 1800.”, Donald D. Leslie, Canberra College of Advanced Education (CCAE), Canberra 1986.
- “Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre”, Muhammad Hamidullah, Editions El-Najah, 6ème édition augmentée, Paris 1998.
- “Manuel d’Histoire, de Généalogie et de Chronologie de tous les Etats du Globe depuis les temps les plus reculés jusqu’à nos jours”, Stokvis A.M.H.J., Leiden, 1888-1893 (ré-édition en 1966 par B.M.Israel).
- “Musulmans de Chine – Une anthropologie des Hui du Henan”, Elisabeth Allès, Editions EHESS, Paris 2000.
- “Trung Quốc Sử Lược”, Phan Khoang, bản in lần thứ ba, Sài gòn và Huế 1958.
- “Từ điển Hán – Việt”, Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh, 1994.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://dvn.com.vn
Category: Hỏi Đáp