Âm tiết và đặc điểm âm tiết tiếng Việt – Mô hình các thành tố

Âm tiết và đặc điểm âm tiết tiếng Việt – Mô hình các thành tố

Âm tiết là một khái niệm quan trọng trong ngôn ngữ học, liên quan đến cách từ ngôn ngữ được chia thành các phần nhỏ hơn gọi là âm tiết. Trong tiếng Việt, âm tiết là một đơn vị cấu thành nên từ vựng và có đặc điểm riêng.

Âm tiết và đặc điểm âm tiết tiếng Việt - Mô hình các thành tố

Âm tiết và đặc điểm âm tiết tiếng Việt – Mô hình các thành tố

Đặc điểm âm tiết tiếng Việt:

  1. Âm tiết mở và âm tiết đóng: Tiếng Việt chia âm tiết thành hai loại chính: âm tiết mở và âm tiết đóng. Âm tiết mở bao gồm một nguyên âm đơn hoặc một nguyên âm kết hợp với một phụ âm. Âm tiết đóng bao gồm một phụ âm kết hợp với một nguyên âm hoặc nguyên âm kết hợp với hai phụ âm.
  2. Nguyên âm: Tiếng Việt có 12 nguyên âm được chia thành 6 nguyên âm đơn và 6 nguyên âm kép. Nguyên âm đơn bao gồm: /a/, /ă/, /â/, /e/, /ê/, /i/, /o/, /ô/, /ơ/, /u/, /ư/, và /y/. Nguyên âm kép là các nguyên âm kết hợp như /ia/, /ua/, /ưa/, /uy/, /uye/, và /yê/.
  3. Phụ âm: Tiếng Việt có 17 phụ âm, bao gồm: /b/, /c/, /d/, /đ/, /g/, /gh/, /h/, /k/, /l/, /m/, /n/, /ng/, /ngh/, /nh/, /p/, /q/, và /r/.

Mô hình các thành tố âm tiết trong tiếng Việt:

  1. Nhân: Là phần trung tâm của âm tiết, chứa nguyên âm hoặc nguyên âm kết hợp với các phụ âm đứng trước. Ví dụ: trong âm tiết “chàng”, “ch” là nhân.
  2. Vần: Là toàn bộ phần sau nhân của âm tiết, bao gồm nguyên âm đơn, nguyên âm kép, và phụ âm kết hợp với nguyên âm. Ví dụ: trong âm tiết “chàng”, “àng” là vần.
  3. Ốc: Là tên gọi cho âm tiết chứa nhân và vần cùng nhau. Ví dụ: âm tiết “chàng” chứa nhân “ch” và vần “àng”, tạo thành một ốc.

Các thành tố này giúp mô tả cấu trúc và cách các âm tiết hình thành trong tiếng Việt.

1. Âm tiết

Chuỗi lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác nhau. Đơn vị phát âm ngắn nhất là âm tiết (syllable).

Về phương diện phát âm, âm tiết có tính chất toàn vẹn, không thể phân chia được là bởi nó được phát âm bằng một đợt căng của cơ thịt của bộ máy phát âm.

Khi phát âm một âm tiết, những cơ thịt của cỗ máy phát âm đều phải trải qua ba quá trình : tăng mức độ căng, đỉnh điểm stress và giảm độ căng .

Dựa vào cách kết thúc, các âm tiết được chia thành hai loại lớn: mở và khép. Trong mỗi loại lại có hai loại nhỏ hơn. Như vậy có 4 loại âm tiết như sau:

– những âm tiết dược kết thúc bằng một phụ âm vang (/m, n, ŋ/…) được gọi là những âm tiết nửa khép.

– những âm tiết được kết thúc bằng một phụ âm không vang (/p, t, k/) được gọi là những âm tiết khép.

– những âm tiết được kết thúc bằng một bán nguyên âm (/w, j/) được gọi là những âm tiết nửa mở.

– những âm tiết được kết thúc bằng cách giữ nguyên âm sắc của nguyên âm ở đỉnh âm tiết thì được gọi là âm tiết mở.

2. Đặc điểm âm tiết tiếng Việt

2.1. Có tính độc lập cao:

+ Trong dòng lời nói, âm tiết tiếng Việt khi nào cũng biểu lộ khá rất đầy đủ, rõ ràng, được tách và ngắt ra thành từng khúc đoạn riêng không liên quan gì đến nhau .
+ Khác với âm tiết những ngôn từ châu Âu, âm tiết nào của tiếng Việt cũng mang một thanh điệu nhất định .
+ Do được bộc lộ rõ ràng như vậy nên việc vạch ranh giới âm tiết tiếng Việt trở nên rất thuận tiện .

2.2. Có khả năng biểu hiện ý nghĩa

+ Ở tiếng Việt, tuyệt đại đa số các âm tiết đều có ý nghĩa. Hay, ở tiếng Việt, gần như toàn bộ các âm tiết đều hoạt động như từ…

+ Có thể nói, trong tiến Việt, âm tiết không chỉ là một đơn vị ngữ âm đơn thuần mà còn là một đơn vị từ vựng và ngữ pháp chủ yếu. Ở đây, mối quan hệ giữa âm và nghĩa trong âm tiết cũng chặt chẽ và thường xuyên như trong từ của các ngôn ngữ Âu châu, và đó chính là một nét đặctrưng loại hình chủ đạo của tiếng Việt.

2. 3. Có một cấu trúc chặt chẽ

Mô hình âm tiết tiếng Việt không phải là một khối không hề chia cắt mà là một cấu trúc. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc hai bậc, ở dạng khá đầy đủ nhất gồm 5 thành tố, mỗi thành tố có một tính năng riêng .

3. Mô hình âm tiết tiếng Việt và các thành tố của nó

3.1. Thanh điệu

THANH ĐIỆU
ÂM ĐẦUVẦN
Âm đệmÂm chínhÂm cuối

Có tác dụng khu biệt âm tiết về cao độ. Mỗi âm tiết có một trong 6 thanh điệu. Vd: toán – toàn

3.2. Âm đầu

Có những cách mở đầu âm tiết khác nhau (tắc, xát, rung), chúng có tác dụng khu biệt các âm tiết. Vd: toán – hoán

3.3. Âm đệm

Có tác dụng biến đổi âm sắc của âm tiết sau lúc mở đầu, nó có chức năng khi biệt các âm tiết. Vd: toán – tán

3.4. Âm chính

Mang âm sắc chủ đạo của âm tiết và là hạt nhân của âm tiết. Vd: y – túi

3.5. Âm cuối

Có chức năng kết thúc âm tiết với nhiều cách khác nhau (tắc, không tắc…) làm thay đổi âm sắc của âm tiết và do đó để phân biệt âm tiết này với âm tiết khác. Vd: n – bài

5 thành tố trên ở âm tiết nào cũng có, đó là 5 thành phần của âm tiết, mỗi thành phần làm thành một trục trái chiều ( những âm tiết trái chiều nhau theo từng trục, hay còn gọi là đối hệ ) .
Vd :

Đối hệVí dụtwan
đối lập theo trục thanh điệu toàn, toản, toán2, 4, 5
đối lập theo trục âm đầutoán, hoánh
đối lập theo trục âm đệmtoán, tánØ
đối lập theo trục âm chínhtoan, tuôno
đối lập theo trục âm cuốitoán, toángŋ

Trong mỗi trục trái chiều có nhiều vế trái chiều nhau, mỗi vế là một âm vị .

Trong trường hợp “toán” và “tán” ta cũng có sự đối lập ở trục âm đệm, ở đây có 2 vế, một vế được gọi là vế có, một vế được gọi là vế không (zero). Vì vậy ta có hai âm vị làm chức năng âm đệm: vế không được gọi là âm đệm zero; vế có là âm vị /w/.

Các bậc trong sự phân định thành tố âm tiết

Những đường ranh giới đi qua thanh điệu và âm đầu khác nhau về số lượng và cũng khác về chất lượng so với những đường ranh giới phân loại trong bộ phận còn lại của âm tiết. Đường ranh giới đi qua âm đầu và phần còn lại còn hoàn toàn có thể nói là một đường ranh giới bán hình thái học ( xét trong trường hợp nếu coi [ iek ] như một hình vị. Trong âm tiết, âm đầu luôn giữ một trường độ riêng, còn những bộ phận nằm trong phần còn lại thì có quan hệ nhân nhượng, nếu nguyên âm dài thì phụ âm cuối ngắn, nếu nguyên âm ngắn thì phụ âm cuối dài, cũng để bảo vệ cho tính cố định và thắt chặt cho trường độ âm tiết .

Như vậy, tỏ ra rằng tính độc lập của âm đầu rất cao, còn các yếu tố làm nên bộ phận phía sau thì tính độc lập thấp, thậm chí không có cho mình một kích thước riêng.

Trong khi nghiên cứu về thanh điệu, Gordina thấy rằng đường cong biểu diễn âm điệu của thanh điệu đi qua các vần [an], [aŋ], và các vần [aw], [aj] đều như nhau. Như vậy, có nghĩa là thanh điệu độc lập với các thành phần chiết đoạn.

Vì vậy, tổng thể những điều đã trình diễn ở trên cho thấy âm tiết tiếng Việt có một cấu trúc 2 bậc :
Cấu trúc 2 bậc của âm tiết

Tham khảo:

  • Âm vị và các hệ thống âm vị tiếng Việt
Alternate Text Gọi ngay