LỊCH SỬ VIỆT NAM từ cội nguồn đến năm 1858 (TRANG THỬ NGHIỆM DEMO)

LỊCH SỬ VIỆT NAM từ cội nguồn đến năm 1858 (TRANG THỬ NGHIỆM DEMO)

Lịch sử Việt Nam từ cội nguồn đến năm 1858 rất dài và phong phú, bao gồm nhiều giai đoạn và sự kiện quan trọng. Dưới đây là một tóm tắt ngắn gọn về lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này:

1. Thời kỳ cổ đại:

  • Triều đại Hồng Bàng: Theo truyền thuyết, Hùng Vương là người sáng lập nên nước Văn Lang, sau này được gọi là Vạn Xuân. Đây là giai đoạn hình thành văn hóa Đông Sơn và phát triển cơ sở kinh tế.

2. Thời kỳ tiền sử:

  • Đại Cồ Việt và những quốc gia ở phương Bắc: Nước Đại Cồ Việt xuất hiện, đánh bại quân Tống và lập nên triều đại Lý, trở thành một quốc gia độc lập với tên gọi Đại Việt. Đồng thời, ở phương Bắc, các quốc gia như Mường Thanh, Chân Lạp cũng xuất hiện.

3. Thời kỳ Trần – Hồ – Lê:

  • Triều đại Trần: Nước Đại Việt đánh bại xâm lược của quân Nguyên Mông (Mongol) trong hai cuộc chiến tranh. Văn hóa và kinh tế phát triển mạnh mẽ.
  • Triều đại Hồ: Nguyễn Trãi đứng ra dẫn dắt kháng chiến chống quân Minh, khôi phục lại nền độc lập.
  • Triều đại Lê sơ: Giai đoạn nước Đại Việt đánh bại cuộc xâm lược của quân Minh, giành lại độc lập và lấy lại tên gọi Giao Chỉ.

4. Thời kỳ tiếp theo:

  • Triều đại Lê trung hưng: Phát triển văn hóa, tôn giáo, và cải cách hành chính.
  • Triều đại Mạc, Trịnh – Nguyễn: Nước Đại Việt bị chia rẽ thành hai triều đại Mạc và Lê (do Trịnh – Nguyễn quản lý) trong giai đoạn này.
  • Chiến tranh Trịnh – Nguyễn: Hai triều đại đối địch Trịnh và Nguyễn cùng tranh đấu để kiểm soát Đại Việt, gây ra nhiều khó khăn và biến đổi chính trị.

5. Thời kỳ đầu thuộc địa:

  • Thời kỳ phục hưng Lê – nhà Tây Sơn: Giai đoạn đấu tranh giành lại độc lập, nhà Tây Sơn nổi dậy, lật đổ chế độ Trịnh – Nguyễn, lập nên triều đại Tây Sơn.

6. Thời kỳ xâm lược phương Tây:

  • Chiến tranh tranh đoạt phần nước Nam: Cuộc chiến tranh giữa triều đại Nguyễn và triều đại Tây Sơn, được biết đến như cuộc chiến tranh Tranh Đoạt Phần Nam (1771 – 1802).

7. Thời kỳ xâm lược phương Tây:

  • Xâm lược phương Tây: Các nước phương Tây xâm lược, bắt đầu từ cuộc xâm lược của Pháp vào năm 1858.

Đây chỉ là một tóm tắt ngắn về lịch sử Việt Nam từ cội nguồn đến năm 1858. Lịch sử này rất phong phú và có nhiều chi tiết thú vị để khám phá.

I. BƯỚC ĐẦU TIÊN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC ĐỘC LẬP THẾ KỶ X.

– Năm 939 Ngô Quyền xưng vương, xây dựng chính quyền sở tại mới, đóng đô ở Cổ Loa ( Đông Anh – Thành Phố Hà Nội ). Mở đầu thiết kế xây dựng nhà nước độc lập tự chủ .
– Năm 968 sau khi dẹp loạn 12 sứ quân Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, ( Đinh Tiên Hoàng ) đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Chuyển kinh đô về Hoa Lư ( Tỉnh Ninh Bình ) .

– Năm 981 Lê Hoàn lên ngôi vua-Lê Đại Hành, đổi niên hiệu là Thiên Phúc ( gọi là Tiền Lê )

– Tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh, Tiền Lê là nhà nước quân chủ sơ khai, chính quyền sở tại TW có 3 ban : Ban văn ; Ban võ ; Tăng ban .
– Chia nước thành 10 đạo .
– Tổ chức quân đội theo chính sách ngụ binh ngư nông .
Trong thế kỷ X nhà nước độc lập tự chủ treo thiết chế quân chủ chuyên chế đã được. Còn sơ khai, tuy nhiên đã là nhà nước độc lập tự chủ của nhân dân ta .

450px-tng_l_thi_t_400_01

Tượng đài vua Lý Công Uẩn – Thành Phố Hà Nội

II. PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN CHỈNH NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN Ở ĐẦU THẾ KỶ XI  đến XV.

1. Tổ chức bộ máy nhà nước

– Năm 1009, Lý Công Uẩn lên làm vua, nhà Lý thành lập-Lý Thái Tổ .
– Năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long ( thủ đô hà nội TP.HN nay ) .
– Năm 1045 Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt .
– Mở ra một thời kỳ tăng trưởng mới của dân tộc bản địa .

* Bộ máy nhà nước Lý, Trần ,Hồ:

– Đứng đầu nhà nước là vua, vua quyết định hành động mọi việc quan trọng, giúp vua có tể tướng và những đại thần, bên dưới là sảnh, viện, đài .
– Bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế được nâng cấp cải tiến hoàn hảo hơn .
– Cả nước chia thành nhiều lộ, trấn do những hoàng tử ( thời Lý ) hay an phủ Sứ ( thời Trần, Hồ ), đơn vị chức năng hành chánh cơ sở là xã .

 lnh_th_dai_viet_500_01_1_500

Lược đồ  lãnh thổ Đại Việt thế kỷ XV

Sơ đồ bộ máy nhà nước triều Lý

l_500

Sơ đồ bộ máy nhà nước triều Trần

bo_may_nha_nuoc_thoi_tran_500

* Bộ máy nhà nước thời Lê sơ: 

– Năm 1428 sau khi thắng lợi nhà Minh, Lê Lợi lên ngôi nhà vua Phục hồi lại nước Đại Việt, lập nhà Lê ( Lê sơ ) .
– Những năm 60 của thế kỷ XV, Lê Thánh Tông triển khai một cuộc cải cách hành chính lớn .
– Vua Lê Thánh Tông bỏ chức tướng quốc, đại hành khiển ; trực tiếp làm tổng chỉ huy quân đội, cấm những quan lập quân đội riêng .
– Vua nắm mọi quyền hành, giúp vua có 6 bộ ( là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công ), đứng đầu mỗi bộ có quan Thượng thư, bên cạnh bộ có Hàn Lâm Viện ( công văn ), Quốc sử viện ( biên soạn lịch sử dân tộc ), Ngự sử đài ( kiểm tra ) .
– Vua Lê Thánh Tông chia cả nước ra làm 13 đạo thừa tuyên do 3 ty quản lý là Đô ty ( quân sự chiến lược ), Hiến ty ( xử án ), Thừa ty ( hành chánh ) ; dưới có phủ, huyện, châu ( miền núi ), xã .
– Khi giáo dục tăng trưởng, những người đỗ đạt làm quan, giáo dục thi tuyển trở thành nguồn huấn luyện và đào tạo quan lại .

Dưới thời Lê bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế đạt mức độ cao, hoàn chỉnh.

Nhận xét về cuộc cải cách của Lê Thánh Tông :

Đây là cuộc cải cách hành chính lớn tổng lực được triển khai từ TW đến địa phương. Cải cách để tăng cường quyền lực tối cao của nhà vua. Quyền lực tập trung chuyên sâu trong tay vua, chứng tỏ bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế nhà Lê đạt đến mức độ cao, hoàn thành xong .

 

Sơ đồ tổ chức triển khai chính quyền sở tại thời Lê sơ ( 1428 – 1527

l_so_500

Lược đồ hành chính nước Đại Việt thời Lê sơ 1428 – 1527

hanh_chan_thoi_le_s_500_500

2. Luật pháp và quân đội

* Luật pháp:

– 1042 Vua Lý Thái Tông ban hành Hình thư ( bộ luật tiên phong ) .
– Thời Trần : Hình luật .
– Thời Lê biên soạn một bộ luật không thiếu gọi là Quốc triều hình luật ( luật Hồng Đức ) .
– Luật pháp nhằm mục đích bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, bảo mật an ninh quốc gia và một số ít quyền hạn chân chính của nhân dân .

 

* Quân đội: được tổ chức quy củ:

– Cấm binh ( bảo vệ kinh thành ) và quân chính quy bảo vệ quốc gia
– Ngoại binh ( lộ binh ) : tuyển theo chính sách ngụ binh ư nông .

3. Hoạt động đối nội và đối ngoại

* Đối nội:

– Quan tâm đến đời sống nhân dân .
– Chú ý đoàn kết đến những dân tộc bản địa ít người .

* Đối ngoại:

– Với nước lớn phương Bắc :
+ Quan hệ hòa hiếu .
+ Đồng thời chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc .
– Với : Chămpa, Lào, Chân Lạp có lúc thân thiện, có lúc xảy ra cuộc chiến tranh .

 

Tham khảo :

Trong lịch sử dân tộc, cha ông ta cũng đã có nhiều phương cách để xử lý khiếu nại, tố cáo, oan sai cho nhân dân. Vua Lý Thái Tổ, là vị vua tiên phong của nhà Lý, đã cho xây cung Long Đức ở ngoài Hoàng thành Thăng Long, cho thái tử Lý Phật Mã ở, để thái tử gần dân, “ ý muốn cho thái tử hiểu biết mọi việc của dân ” .
Thái tử Lý Phật Mã lên làm vua, là vị vua hiền Lý Thái Tông, rất chăm sóc việc xử lý khiếu kiện, oan trái cho dân. Vào năm 1040, vua Lý Thái Tông đã giao việc xét xử kiện tụng của dân cho đích thân thái tử Khai Hoàng Nhật Tôn, dùng điện Quảng Vũ của thái tử làm nơi cho thái tử xử kiện cho dân .
Năm 1042, vua Lý Thái Tông cũng cho kiến thiết xây dựng bộ luật Hình Thư tiên phong của nước ta, pháp luật phân minh những việc xử phạt, tránh việc làm tùy tiện, nhũng lạm, gây ra oan trái cho dân của những quan lại. Luật Hình Thư pháp luật người tố cáo đúng tệ nhũng lạm của những quan lại, được “ tha phu dịch cho cả nhà trong 3 năm. Người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật thu được ”. Tiếc rằng bộ luật Hình Thư của nhà Lý đến nay đã thất truyền, chỉ còn lại bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê sau này .
Đến năm 1052, vua Lý Thái Tông cho đúc chuông lớn đặt ở cung Long Trì, trong khu vực Hoàng thành Thăng Long ngày này, để “ cho dân ai có oan ức không bày tỏ được thì đánh chuông ấy để tâu lên ”. Chính vua Lý Thái Tông cũng là vị vua đã cho xây chùa Một Cột, còn gọi là chùa Diên Hựu vào năm 1049 .
Đến năm 1158, vua Lý Thần Tông cũng “ cho đặt cái hòm đồng ở giữa sân để ai có việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy ” .

Cải Cách Hành Chính Của Vua Lê Thánh Tông:

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông triển khai cuộc cải cách hành chính trên khoanh vùng phạm vi cả nước. Ông bỏ hết những chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành, chia lại cả nước thành 12 thừa tuyên, thống nhất những đơn vị chức năng hành chính thành phủ, huyện, châu, xã. Cuộc cải cách đã tạo được một mạng lưới hệ thống hành chính tinh giản, có hiệu lực thực thi hiện hành, là quy mô tiên tiến và phát triển của chế độ quân chủ, phong kiến đương thời .
Có thể nói Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế đầy tự tin, ý chí kiên trì và hành vi quyết đoán. Ông trực tiếp quản lý và điều hành ở mức tối cao nhiều việc làm của triều đình .
Năm 1471, khi đã không thay đổi những vùng biên giới phía bắc và phía nam, cuộc cải cách hành chính mới thật sự mở màn. Bản “ Hiệu định quan chế ” tức là văn bản chính thức về cuộc cải cách hành chính được phát hành. Lê Thánh Tông nêu những nguyên do cấp thiết dẫn đến cuộc cải cách : “ Đồ bản, đất đai ngày này so với trước đã khác nhau xa, ta cần phải tự mình giữ quyền chế tác, hết đạo biến thông. ở trong kinh, quân vệ nhiều thì đặt năm phủ để giữ, việc công bộn bề thì đặt sáu bộ bàn nhau cùng làm, sáu khoa để xét bác trăm quan, sáu tự để thừa hành mọi việc ”. Lê Thánh Tông cũng chỉ rõ những quyền lợi mà cuộc cải cách đem lại : “ Ăn hại đã không có, nghĩa vụ và trách nhiệm lại rõ ràng. Như thế là cốt để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, uy quyền không bị lạm dụng, lẽ phải không bị lung lay, khiến trăm họ có thói quen theo đạo, giữ phép, không có lầm lỗi làm trái nghĩa, phàm hình, để theo trọn cái chí của Thái Tổ, Thần Tông ta mà giữ được an trị lâu dài hơn ” .
Và cuộc cải cách hành chính đã diễn ra rất là có hiệu suất cao .
Trước hết, Lê Thánh Tông bỏ hết những chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành như Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, khu mật viện, những tướng quốc, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ … Nếu khi cần phải có người thay vua chỉ huy việc làm, thì phải là những đại thần như thái sư, thái phó, thái bảo, thái úy, thiếu sư, thiếu bảo …
Tiếp đến, Lê Thánh Tông tách sáu bộ Lại, Lễ, Binh, Hình, Công, Hộ ra khỏi Thượng thư sảnh, lập thành sáu cơ quan riêng, đảm nhiệm những hoạt động giải trí khác nhau của nhà nước. Đứng đầu mỗi bộ là chức thượng thư, hàm nhị phẩm, chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trực tiếp trước vua. Sự cải cách dễ nhận ra nhất là ở bộ Lại, một bộ chịu nghĩa vụ và trách nhiệm tuyển bổ, thăng giáng và bãi miễn những chức quan từ tam phẩm trở xuống. Không như những triều đại trước, bộ Lại không được toàn quyền hành vi. Theo nguyên tắc “ lớn nhỏ cùng ràng buộc lẫn nhau ”, nếu “ bộ Lại thăng bổ không xứng thì Khoa có quyền bắt bẻ, hoặc tố giác nếu bộ Lại làm sai lầm ” .
Trong cuộc cải cách này, Lê Thánh Tông rất đề cao công tác làm việc thanh tra, giám sát quan lại. Ngoài Ngự sử đài có từ thời Trần, ông cho đặt sáu khoa chuyên theo dõi, giám sát quan lại ở sáu bộ. “ Bộ Lễ nghi thức không hợp thì Lễ khoa được phép đàn hặc. Bộ Hộ có Hộ khoa trợ giúp. Hình khoa có quyền xét lại sự thẩm đoán của bộ Hình … ” .
Lê Thánh Tông đặc biệt quan trọng chú ý quan tâm đến kiến thức và kỹ năng thật sự của những người chỉ huy. Ông bỏ chính sách bổ dụng vương hầu, quý tộc vào những trách nhiệm của triều đình mà lấy thước đo học vấn làm tiêu chuẩn dùng người, không phân biệt thành phần xuất thân. Các thân vương, công hầu, tuy vẫn được ban bổng lộc nhưng nếu không đỗ đạt thì không được đứng trong bộ máy nhà nước .
Chỉ riêng với cải cách này, Lê Thánh Tông đã có một tầm nhìn hơn hẳn những triều đại trước .
Bên cạnh bộ máy nhà nước ở TW, mạng lưới hệ thống hành chính địa phương cũng có ý nghĩa rất quan trọng với vị thế thống trị của một triều đại. Bởi vì phần đông dân cư tập hợp ở những nơi này. Nếu có một chính sách tương thích với họ, triều đại sẽ vững chắc vì có sự bảo vệ của chính những người dân ấy .

Năm 1466, cùng với việc thành lập các bộ, các tự, Lê Thánh Tông sáng suốt chia lại cả nước thành 12 đạo thừa tuyên và một phủ Trung đô (khu vực kinh thành). Năm 1471, ông cho lập thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam. ở cách phân chia mới, mỗi đạo thừa tuyên đều có ba ty ngang quyền nhau cai quản: Đô tổng binh sứ ty (Đô ty), Thừa tuyên sứ ty (Thừa ty) và Hiến sát sứ ty (Hiến ty). Đô ty và Thừa ty trông coi về quân sự và dân sự. Hiến ty chịu trách nhiệm thanh tra, giám sát các quan chức địa phương; luôn đi sâu, tìm hiểu đời sống và nguyện vọng của nhân dân. Ngoài ra, để giúp Hiến ty làm nhiệm vụ, ở Ngự sử đài, Lê Thánh Tông đặt thêm 13 cai đạo giám sát ngự sử chuyên giám sát, giúp đỡ các Hiến ty. Dưới đạo Thừa tuyên, Lê Thánh Tông cho thống nhất các đơn vị hành chính thành phủ, huyện, châu, xã.

Như vậy, khoảng chừng từ năm 1471, trải qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được mạng lưới hệ thống hành chính thống nhất trong khoanh vùng phạm vi cả nước. Hệ thống khá ngăn nắp với chức trách phân minh, bảo vệ sự chỉ huy và tập trung chuyên sâu quyền lực tối cao của TW. Đây là quy mô tiên tiến và phát triển nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, TW và địa phương gắn liền nhau, quyền lực tối cao được bảo vệ từ trên xuống dưới .
Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế lớn của một vương triều mạnh, có nhiều góp phần trong lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa …
( Nguồn : http://diepdoan.violet.vn/entry/show/entry_id/1776867 )

Source: https://dvn.com.vn
Category: Bản Tin DVN

Alternate Text Gọi ngay