Vì sao ông Hai phải đi tản cư
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Tóm tắt nhân vật ông Hai. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Nội dung chính
- Tóm tắt nhân vật ông Hai – Bài mẫu 1
- Tóm tắt nhân vật ông Hai – Bài mẫu 2
- Tóm tắt nhân vật ông Hai – Bài mẫu 3
- Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
- Video liên quan
Mục Lục
Tóm tắt nhân vật ông Hai – Bài mẫu 1
Ông Hai là một người nông dân rất yêu làng và tự hào về làng Chợ Dầu của mình nhưng vì cuộc chiến tranh và thực trạng mái ấm gia đình nên ông phải rời làng đi tản cư. Sống trong thực trạng gò bó ở nơi tản cư, ông Hai luôn bứt rứt nhớ về cái làng Chợ Dầu. Một hôm ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức như mọi khi ông bỗng nghe được từ một người đàn bà tản cư tin làng Dầu Việt gian theo Tây. Tin dữ đến giật mình khiến da mặt ông tê rân rân, cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, ông lặng đi tưởng như đến không thở được rồi chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi về. Về nhà, ông nằm vật ra giường mấy ngày không dám đi đâu, sợ hãi lo ngại, ai nói gì cũng tưởng họ buôn chuyện về làng mình. Khi mụ chủ nhà có ý đuổi mái ấm gia đình ông đi nơi khác, ông chớm có dự tính quay về làng nhưng rồi ông lại xác lập Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Không biết tâm sự cùng ai nỗi đau khổ trong lòng, ông trò chuyện với đứa con nhỏ một lòng ủng hộ cụ Hồ. Khi quản trị xã lên cải chính làng Dầu không theo Tây, ông sung sướng đi khoe với toàn bộ mọi người, khoe cả tin làng ông bị Tây đốt nhẵn .
Tóm tắt nhân vật ông Hai – Bài mẫu 2
Bạn đang đọc: Vì sao ông Hai phải đi tản cư
Ông Hai theo lệnh của cơ quan chính phủ cùng người dân trong làng Chợ Dầu di tán đến nơi khác. Thời gian này tiến trình kháng chiến của quân ta và thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt. Ông Hai là con người yêu làng, yêu quê. Dù xa quê nhưng khi nào cũng nghe ngóng thông tin và luôn tự hào về ngôi làng của mình. Ở một nơi xa nhưng ông giật mình nhận tin sét đánh, làng Chợ Dầu theo giặc, làm phản cách mạng. Ông xấu hổ, tuyệt vọng và cả sự nhục nhã. Ông quanh quẩn ở nhà mà chẳng dám đi đâu, ngay cả chủ nhà trọ cũng muốn đuổi ông vì sống tại làng Việt gian bán nước. Ông luôn có sự đấu tranh lớn giữa tình yêu làng và cách mạng. Ông quyết định hành động làng theo giặc phải thù làng chứ nhất định không phản cụ Hồ và cách mạng. Trong một lần nghe ngóng, ông nghe tin cải chính, làng Chợ Dầu không theo Tây, lòng ông vui trở lại, ngôi làng vẫn trung thành với chủ với cách mạng. Ông kể về ngôi làng bị Tây đốt sạch, không còn gì cả như một cách chứng tỏ làng vẫn theo cách mạng .
Tóm tắt nhân vật ông Hai – Bài mẫu 3
Ông Hai là người nông dân luôn thương mến, gắn bó với làng Dầu quê nhà ông. Ông có tật hay khoe về làng mình. Trước cách mạng, ông khoe cái sinh phần của viên quan Tổng đốc người làng ông. Ông khoe làng ông phong phú, nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh, đường cái trong làng lát toàn đá xanh. Sau cách mạng tháng Tám, ông khoe làng trong những ngày khởi nghĩa dồn dập, dân làng tích cực đào hào giao thông vận tải, tập quân sự chiến lược chuẩn bị sẵn sàng kháng chiến chống Pháp. Khi buộc phải đi tản cư theo chủ trương của nhà nước, ông và vợ con vẫn luôn theo dõi tin tức làng Dầu .Khi ở nơi tản cư, ông hay nghĩ về làng, ông thấy nhớ cái làng quá. Ông nhớ những ngày cùng thao tác với đồng đội, cùng đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Ông mừng thầm, háo hức khi nghe được những tin hay về kháng chiến .Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây, ông sững sờ, cổ ông lão nghẹn ắng lại, ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Trên đường về nhà, ông thấy xấu hổ, nhục nhã nên cúi gằm mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông chưa tin nhưng rồi cay đắng nhận ra ai người ta hơi đâu bịa tạc rồi nước mắt ông lão giàn ra. Ông thấy khổ tâm, nghĩ đến sự khinh bỉ của mọi người dành cho con ông. Ông căm giận dân làng và lo ngại không biết tương lai sinh sống thế nào. Ông cáu gắt với vợ, trằn trọc không ngủ được .Suốt mấy ngày sau, ông Hai tủi hổ, không dám ra khỏi nhà. Ông sầm uất, vô vọng, bế tắc và quyết định hành động làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. Ông tìm đến trò chuyện với con trai ông để chứng minh và khẳng định tình yêu làng, lòng chung thủy và niềm tin của ông với cách mạng, cụ Hồ .Khi nghe tin làng Dầu được cải chính, ông Hai vô cùng sung sướng, ông vui mừng đi chia quà cho lũ trẻ và hả hê khoe với mọi người nhà ông bị Tây đốt .
Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến, thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân nhà văn nông dân mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì thay đổi. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết .Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Nước Ta, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu thâm thúy về đời sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn Làng, không phải trong những yếu tố thường nhật, mà về tình yêu làng quê và quốc gia của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần tiên phong trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, ghi lại bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt quan trọng qua nhân vật ông Hai .Nét tính cách tiên phong và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết so với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị chức năng hành chính, địa lí. Ở đó tiềm ẩn đời sống của họ, tổng thể những gì thân thiện và quen thuộc với họ. Làng chính là quê nhà, là cuộc sống họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với toàn bộ niềm hãnh diện. Ông nói về cái làng ấy một cách mê hồn và náo nức quái đản. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động giải trí. Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người trọn vẹn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn nhà bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông .Kim Lân điểm nhịp câu truyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng thao tác với bạn bè. [ ] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng đồng đội đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với đồng đội thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian nan, khó nhọc, nguy khốn đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó trọn vẹn trái ngược với ông Hai khi nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn nhà bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức vui tươi và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá. Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp tươi. Nay ở trong căn nhà bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó trọn vẹn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính .Tình yêu làng của ông Hai được biểu lộ điển hình nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông khước từ tin vào điều đó. Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ. Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp tươi của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ rằng ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải cúi gằm mặt đi thẳng, nước mắt ông cứ dàn ra. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ cả làng chúng nó Việt gian theo Tây như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành .Ông không gật đầu được thực sự ấy và đấu tranh nội tâm kinh hoàng. Lúc đầu là nghi ngại ( Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ? ), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những vật chứng rõ ràng ( Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi ). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian ! Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí còn tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như vậy. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ? Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật can đảm và mạnh mẽ và thức tỉnh tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tục trong thẩm mỹ và nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự .Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì giờ đây ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn thổi quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình dung luôn đè nặng lên tâm lý ông. Một đám đông túm lại, ông cũng chú ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang chú ý, người ta đang buôn chuyện đến cái chuyện ấy. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lủi ra một góc nhà, nín thít .Thôi lại chuyện ấy rồi ! Lẽ thường tình, khi người ta tâm lý quá nhiều về một điều gì đó, khi nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo âu của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn đạt rất đơn cử và thâm thúy tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp thực trạng tương tự như. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không hề đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không hề dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và do đó mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn .Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và niềm tin kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá ! Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới thể hiện rõ ràng. Dù bị tin đồn thổi làng mình theo Tây dồn vào tuyệt đường sinh sống, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn thuần, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ. Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định hành động rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt quan trọng trong tính cách của ông Hai, ghi lại sự đổi khác của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám .
Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ. Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần lòng yêu nước.
Xem thêm: Dude là gì? Dude có ý nghĩa gì? Dude được sử dụng như thế nào? – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng
Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn hảo. Ông Hai như sống lại. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được biểu lộ một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại quay trở lại trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn ! Niềm vui sướng của ông được bộc lộ thật hồn nhiên, chân thực và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng danh với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là bộc lộ hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê tạo ra sự lòng yêu tổ quốc. Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám những người nông dân cả cuộc sống đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng : Đất nước còn thì làng còn, quốc gia mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự biến hóa trong tâm lý người nông dân, mà còn là tâm lý của mỗi người dân Nước Ta thời gian đó. Họ chuẩn bị sẵn sàng quyết tử những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc bản địa. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng quốc gia, giải phóng quê nhà .Truyện ngắn Làng đã kiến thiết xây dựng thành công xuất sắc nhân vật ông Hai, đặc biệt quan trọng qua trường hợp làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt quan trọng của đời sống, được phát minh sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ tổng lực. Kim Lân đã phát minh sáng tạo được một trường hợp truyện có tính căng thẳng mệt mỏi để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công xuất sắc trong nghệ thuật và thẩm mỹ miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành vi, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh động, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc bất thần tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu đời sống nông thôn nên ngôn từ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và thân thiện, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng danh là một cây bút quý hồ tinh, bất quý hồ đa .Nguyễn Đình Thi từng viết rằng : Tác phẩm nghệ thuật và thẩm mỹ nào cũng thiết kế xây dựng bằng những vật tư mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới lạ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh. Truyện ngắn Làng đã được viết nên từ những điều nhà văn từng thưởng thức, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ .. Thông qua nghệ thuật và thẩm mỹ thiết kế xây dựng trường hợp truyện và miêu tả tâm lí, ngôn từ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha .Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến, thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân nhà văn nông dân mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì thay đổi. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết .Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Nước Ta, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu thâm thúy về đời sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn Làng, không phải trong những yếu tố thường nhật, mà về tình yêu làng quê và quốc gia của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần tiên phong trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, lưu lại bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt quan trọng qua nhân vật ông Hai .Nét tính cách tiên phong và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết so với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị chức năng hành chính, địa lí. Ở đó tiềm ẩn đời sống của họ, toàn bộ những gì thân thiện và quen thuộc với họ. Làng chính là quê nhà, là cuộc sống họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tổng thể niềm hãnh diện. Ông nói về cái làng ấy một cách mê hồn và náo nức quái gở. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động giải trí. Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người trọn vẹn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn nhà bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông .Kim Lân điểm nhịp câu truyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng thao tác với bạn bè. [ ] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng bạn bè đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với đồng đội thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian nan, khó nhọc, nguy hại đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó trọn vẹn trái ngược với ông Hai khi nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn nhà bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức vui tươi và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá. Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và xinh xắn. Nay ở trong căn nhà bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó trọn vẹn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính .Tình yêu làng của ông Hai được bộc lộ điển hình nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông phủ nhận tin vào điều đó. Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ. Nếu như tin dữ ấy là cái làng xinh xắn của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ rằng ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải cúi gằm mặt đi thẳng, nước mắt ông cứ dàn ra. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ cả làng chúng nó Việt gian theo Tây như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành .Ông không gật đầu được thực sự ấy và đấu tranh nội tâm kinh hoàng. Lúc đầu là nghi ngại ( Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ? ), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những dẫn chứng rõ ràng ( Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi ). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian ! Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí còn tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như vậy. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ? Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật can đảm và mạnh mẽ và thức tỉnh tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tục trong thẩm mỹ và nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự .Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì giờ đây ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn thổi quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình dung luôn đè nặng lên tâm lý ông. Một đám đông túm lại, ông cũng chú ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang chú ý, người ta đang buôn chuyện đến cái chuyện ấy. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lủi ra một góc nhà, nín thít .Thôi lại chuyện ấy rồi ! Lẽ thường tình, khi người ta tâm lý quá nhiều về một điều gì đó, khi nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và thấp thỏm của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn đạt rất đơn cử và thâm thúy tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp thực trạng tương tự như. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không hề đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không hề dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì vậy mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn .Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và ý thức kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá ! Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới thể hiện rõ ràng. Dù bị tin đồn thổi làng mình theo Tây dồn vào tuyệt đường sinh sống, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn thuần, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ. Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định hành động rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt quan trọng trong tính cách của ông Hai, ghi lại sự biến hóa của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám .Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy chuyện trò với đứa con, nhưng thực ra ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ. Ông Hai nói với đứa con như thể nói với đồng đội chiến sỹ, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật đơn giản và giản dị nhưng vô cùng chân thành, thâm thúy và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn thổi quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần lòng yêu nước .Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn hảo. Ông Hai như sống lại. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được biểu lộ một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở lại trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn ! Niềm vui sướng của ông được biểu lộ thật hồn nhiên, chân thực và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng danh với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là bộc lộ hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm ra lòng yêu tổ quốc. Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám những người nông dân cả cuộc sống đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng : Đất nước còn thì làng còn, quốc gia mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự đổi khác trong tâm lý người nông dân, mà còn là tâm lý của mỗi người dân Nước Ta thời gian đó. Họ sẵn sàng chuẩn bị quyết tử những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc bản địa. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng quốc gia, giải phóng quê nhà .Truyện ngắn Làng đã kiến thiết xây dựng thành công xuất sắc nhân vật ông Hai, đặc biệt quan trọng qua trường hợp làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt quan trọng của đời sống, được phát minh sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ tổng lực. Kim Lân đã phát minh sáng tạo được một trường hợp truyện có tính căng thẳng mệt mỏi để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công xuất sắc trong nghệ thuật và thẩm mỹ miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành vi, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh động, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc bất thần tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu đời sống nông thôn nên ngôn từ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và thân mật, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng danh là một cây bút quý hồ tinh, bất quý hồ đa .
Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh. Truyện ngắn Làng đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.
— / —
Như vậyTop lời giải đã trình bày xong bài văn mẫuTóm tắt nhân vật ông Hai. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt mônVăn!
Video liên quan
Source: https://dvn.com.vn
Category: Hỏi Đáp