CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP sư PHẠM NHỮNG PHƯƠNG PHÁP và kỹ NĂNG sư PHẠM HIỆN đại, HIỆU – Tài liệu text
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP sư PHẠM NHỮNG PHƯƠNG PHÁP và kỹ NĂNG sư PHẠM HIỆN đại, HIỆU QUẢ từ các CHUYÊN GIA đức và VIỆT NAM
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.19 KB, 139 trang )
Bạn đang đọc: CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP sư PHẠM NHỮNG PHƯƠNG PHÁP và kỹ NĂNG sư PHẠM HIỆN đại, HIỆU – Tài liệu text
CẨMNANGPHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ NĂNG SƯ PHẠM HIỆN ĐẠI, HIỆU QUẢ
TỪ CÁC CHUYÊN GIA ĐỨC VÀ VIỆT NAM
(Cuốn sách hữu ích cho các giảng viên giáo viên, báo cáo viên, người điềuhành hội
nghị, hội thảo, cuộc họp )
(In lần thứ nhất)
Cố vấn: GS.TS. Đinh Văn Tiến – Ulrich Lipp
Tác giả: Ths. Nguyễn Thị Minh Phượng – Ths. Phạm Thị Thúy
Hiệu đính: GS.TS. Đinh Văn Tiến
LỜI GIỚI THIỆU
Bạn đang có trên tay một cẩm nang giúp bạn rất nhiều trong công việc giảng dạy.
Có thể là bất cứ ai trong đại gia đình giáo dục Việt Nam: các thầy, cô giáo, các nhà sư
phạm, các bạn sinh viên ở các trường đại học khác nhau có khát vọng trở thành giảng
viên hoặc là các báo cáo viên, thuyết trình viên, biên tập viên, phát thanh viên, người tổ
chức điều hành hội nghị, hội thảo ; cả những ai yêu thích và quan tâm đến việc đổi mới
phương pháp giảng dạy tất cả đều có thể đến với Cẩm nang phương pháp sư phạm và
tìm được ở đây những điều tâm huyết, những chỉ dẫn cụ thể và rất hữu ích đối với nghề
dạy học.
Có một thực tế là hiện nay, hàng trăm nghìn giáo viên ở khắp mọi miền đất nước
qua nhiều năm hành nghề đã cảm thấy bức bối và muốn đổi mới phương pháp giảng dạy,
sao cho cả người dạy và người học đều đạt được hiệu quả cao hơn và hạnh phúc hơn
trong việc dạy và học. Đó là lý do họ đến với chương trình Đổi mới phương pháp sư
phạm do các nhà sư phạm Đức và chúng tôi thực hiện. Sau hàng chục năm, những
người tiên phong nhất trong học tập, nghiên cứu và ứng dụng đã cho ra đời cuốn sách
mô tả tâm thế và kỹ năng của người giảng viên: từ cách thức tổ chức khóa học, mục tiêu
chương trình đào tạo đến những kỹ năng cụ thể, thao tác của các giảng viên trong giờ
học: nghe, nói, đọc, viết, hỏi, trả lời, quan sát lớp học, tiếp xúc với học viên, tổ chức thư
giãn, giải trí, v.v.
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
Do đó, cuốn sách này sẽ không có những lập luận thiên về khoa học hàn lâm, mà
bạn sẽ hài lòng với các chỉ dẫn thiết thực, dễ hiểu và dễ áp dụng. Bạn sẽ biết cách mở
đầu bài giảng như thế nào để thu hút sự chú ý của người học ngay từ những giây phút
đầu tiên của giờ học; cách neo chốt kiến thức giúp người học nhớ được bài lâu hơn;
cách lập kế hoạch bài giảng chi tiết sao cho phù hợp giữa nội dung – phương pháp
phương tiện và thời gian cho một tiết giảng/bài giảng; cách trực quan hóa bài giảng để
cho giờ học trở nên sinh động hơn, hiệu quả hơn Cuốn sách còn giúp các bạn có thể
sử dụng linh hoạt các phương tiện chủ yếu trong giảng dạy, từ chiếc bảng đen đầy tiện
ích cho đến chiếc máy chiếu hiện đại, cũng như hoàn thiện kỹ năng giao tiếp với người
học, kỹ năng nhận xét, góp ý cho đồng nghiệp, giải đáp một số thắc mắc khi áp dụng
phương pháp vào giảng dạy chuyên môn của các bạn.
Nếu các bạn muốn học nâng cao để trở thành những giảng viên huấn luyện phương
pháp, các bạn hãy đọc trong cuốn sách này “Chương trình đào tạo Thạc sĩ Huấn luyện
phương pháp sư phạm” và các chỉ dẫn hữu ích khác. Chắc rằng bạn sẽ tìm thấy những
điều mình đang cần và sẽ tiến tới thành công!
Với mong muốn nâng cao chất lượng giảng dạy và hiệu quả đào tạo đồng thời đáp
ứng mong muốn chân chính là khẳng định năng lực và vị trí của bất kỳ người giảng viên
nào, chúng tôi đã cố gắng biên soạn và giới thiệu đến các bạn cuốn sách này. Mặc dù
rất nỗ lực, song chắc rằng cuốn sách sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Mong được
bạn đọc đóng góp ý kiến để chúng tôi hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.
Mọi ý kiến góp ý, xin gửi về:
Ths. Phạm Thị Thúy, giảng viên huấn luyện phương pháp sư phạm Điện thoại: 0918
604 397. Email: [email protected]
Ths Nguyễn Thị Minh Phượng, giảng viên huấn luyện phương pháp sư phạm. Điện
thoại: 0912440870.
Email: [email protected]
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
Nhóm tác giả
LỜI NÓI ĐẦU
Với vai trò là một trong những người kiến tạo chương trình đào tạo Thạc sĩ Huấn
luyện – giảng viên khung tại Việt Nam, tôi vinh dự đóng góp vào quyển sách này để qua
đó các Thạc sĩ Huấn luyện được chuyển giao những ý tưởng cơ bản của chương trình,
sẽ “nhiễm loại virut có ích” của các phương pháp giảng dạy tích cực. Và tôi sẽ rất vui
mừng nếu họ truyền được sự đam mê các phương pháp dạy và học tích cực ra khắp đất
nước Việt Nam.
Những ý tưởng cơ bản của chương trình đào tạo Thạc sĩ Huấn luyện
Không bao giờ chúng tôi có ý định khuyên giảng viên từ bỏ phương pháp thuyết
trình. Hiếm khi tôi được trải nghiêm những giờ thuyết trình tốt như ở Việt Nam. Tôi không
dùng từ “nghe thuyết trình”, mà là trải nghiệm, vì nghệ thuật thuyết trình của các đồng
nghiệp Việt Nam không chỉ hạn hẹp trong ngôn ngữ. Việc sử dụng phương tiện hỗ trợ
trong giờ giảng – chủ yếu là cái bảng thân quen và hiệu quả – được các bạn thực hiện rất
tốt. Các bạn cũng biết cách dùng sự biểu cảm của nét mặt và sự chuyển động của cơ
thể để thu hút sự chú ý của người nghe.
Nhưng bài thuyết trình chỉ có thể trở nên mạnh mẽ và có tác dụng khi nó được sử
dụng sinh động bên cạnh các phương pháp giáng dạy khác.
Vì lý do này mà chương trình đào tạo Thạc sĩ Huấn luyện ra đời với mục tiêu làm
cho các đồng nghiệp Việt Nam hứng thú với các phương pháp mới, để qua đó có thể kéo
người học ra khỏi trạng thái thụ động. Chỉ khi chính người học trở nên tích cực, và chỉ khi
người học tự mình tham gia, thì việc học mới trở nên tích cực. Người phiên dịch và cũng
là bạn của tôi – nói với tôi một câu tục ngữ Việt Nam thể hiện tuyệt vời ý tưởng trên:
“Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”.
Cùng với ý tưởng cơ bản này, chúng tôi muốn trang bị cho các đồng nghiệp Việt
Nam những kiến thức và kỹ năng để có thể thực hiện được giờ giảng theo hướng hiện
đại, và hơn hết là giờ giảng hiệu quả. Đồng thời, họ cũng có trách nhiệm phải chuyển
giao những kiến thức đó cho các giảng viên khác.
Niềm vui khi nhìn đồng nghiệp trên bục giảng
Trong những lần sang Việt Nam gần đây, tôi không phải làm việc nhiều trong
chương trình đào tạo Thạc sĩ Huấn luyện nữa. Phần lớn thời gian tôi ngồi ở cuối lớp và
quan sát cách các Thạc sĩ Huấn luyện giảng bài trước các giảng viên. Những gì nhìn thấy
làm tôi rất phấn chấn. Các Thạc sĩ Huấn luyện thực hiện bài giảng một cách tự tin và
vững vàng với những phương pháp tích cực. Họ không sao chép những gì tôi đã làm, mà
mỗi người đều xây dựng một phong cách riêng dựa theo thế mạnh của họ và đặc thù của
người học Việt Nam. Các phương pháp được thay đổi đề phù hợp với điều kiện cơ sở
vật chất, và cũng có những cách làm hoàn toàn mới được sáng tạo ra.
Tất cả các bài giảng đều được thực hiện với một trình độ rất cao, và như vậy thì
các Thạc sĩ Huấn luyện phương pháp sư phạm hoàn toàn có thể giảng dạy được ở nước
ngoài. Một nữ đồng nghiệp Việt Nam khi đến thăm một trường đại học ở Đức đã phàn
nàn với tôi rằng phương pháp giảng dạy ở đó chưa đạt chất lượng của các Thạc sĩ Huấn
luyện. Chị nói: “Giờ lên lớp ở trường đại học ấy thường chỉ là những giờ giảng tẻ nhạt”.
Điều đó làm tôi ngượng một chút, nhưng đồng thời cũng cho thấy một chuẩn mực cao
của các đồng nghiệp Việt Nam.
Phải chăng người Việt Nam học khác?
Mỗi khi chuẩn bị đi công tác nước ngoài, nhiều người châu Âu được học về những
khác biệt giữa các nền văn hóa, và quả thật là có nhũng khác biệt về văn hóa giữa các
quốc gia. Người Việt Nam cũng luôn muốn tìm hiểu và hỏi, người Đức học như thế nào?
Đối với tôi, trong suốt nhiều năm ở Việt Nam, những sự khác biệt đó không quan trọng
lắm. Quan trọng hơn là nhận thức rằng: về cơ bản, con người ở mọi nơi trên trái đất đều
học rất giống nhau. Tôi sẽ giải thích điều này bằng ba luận điểm sau đây:
1. Người học cần một quan hệ tốt với giáo viên
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, học không có cảm xúc sẽ không thành công. Một
phần quan trọng của cảm xúc này là mối quan hệ tích cực giữa người dạy và người học.
Một giáo viên hoạt động như một “cỗ máy giảng” hoàn hảo sẽ không khích lệ việc học
nhiều bằng một người thầy bằng xương bằng thịt, giảng bài bằng sự vui vẻ, cởi mở, tôn
trọng và hài hước. Người thầy như là một tấm gương, nhưng không cần phải là hoàn
hảo, vì những sai lầm nhỏ là không thé tránh khỏi. Tại Việt Nam, tôi nhận thấy các giáo
viên luôn sợ mắc sai lầm hoặc không trả lời được câu hỏi của người học. Xét trên
phuơng diện sư phạm thì nỗi sợ đó là hoàn toàn không có cơ sở.
2. Cách học tích cực ngày càng quan trọng
Như trên đã trình bày, khuyến khích cách học tích cực là mục tiêu trọng tâm của
chương trình đào tạo Thạc sĩ Huấn luyện. Chúng tôi biết rằng người học ở khắp nơi trên
thế giới sẽ học tập hiệu quả nhất nếu họ tự tiếp thu nội dung dưới sự hướng dẫn của
nguời dạy và nếu họ áp dụng được ngay các kiến thức ấy. Chương trình đào tạo Thạc sĩ
Huấn luyện của chúng tôi thành công chính là vì tất cả các mô-đun (khóa học) đều có yêu
cầu thực hành trong thực tế. Đối với người học, đó là một thách thức lớn khi phải áp
dụng ngay những phương pháp mới làm quen vào công việc thực tế của họ – như hỏi
chuyên gia hoặc nêu ý kiến để ghi lên bảng – trong khi các đồng nghiệp và chuyên gia
quan sát ở phía dưới. Cách thực hành đó là một áp lực, nhưng là một áp lực tích cực
nhằm khuyến khích và nâng cao chất lượng dạy và học.
3. Học là phải có sự liên hệ với thực tẽ
Lý thuyết và thực tế gắn bó với nhau như ngày với đêm. Nếu giờ giảng chỉ xoay
quanh những kiến thức sách vở và người học không nhận thấy mối quan hệ với cuộc
sống thực tại, nghĩa là buổi học không đảm bảo yêu cầu. Kiến thúc lý thuyết có thể được
người học ghi nhớ trong các kỳ kiểm tra, nhưng khi thi xong, kiến thức đó sẽ biến mất.
Lý thuyết là quan trọng để chúng ta lý giải thế giới và từ đó có thể thay đổi thế giới.
Nhưng nếu không có mối liên hệ với thực tế, nó sẽ chẳng có tác dụng gì.
Ba ý tưởng cơ bản này có thể được thực hiện tốt trong giờ giảng bằng cách áp
dụng các phương pháp tích cực. Nhưng tôi nhường phần mô tả các phương pháp đó cho
các đồng nghiệp Việt Nam. Giờ đây họ làm việc này giỏi hơn tôi, vì họ đã đưa các
phương pháp đó hòa nhập vào đời sống Việt Nam và tiếp tục phát triển chúng. Các bạn
có thể tìm thấy những cách thức cụ thể của từng phương pháp ấy trong cuốn Cấm nang
Phương pháp Sư phạm này.
-Ulrich Lipp
Chuyên gia huấn luyện sư phạm
LỢI ÍCH CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC
KHẮC PHỤC NHỮNG TRỞ NGẠI KHI ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC
NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG GIẢNG DẠY
LẬP KẾ HOẠCH BÀI GIẢNG
PHƯƠNG PHÁP “TIA CHỚP”
PHƯƠNG PHÁP “HỎI CHUYÊN GIA”
PHƯƠNG PHÁP “HỎI – ĐÁP”
PHƯƠNG PHÁP “NÊU Ý KIẾN GHI LÊN BẢNG”
PHƯƠNG PHÁP “LÀM VIỆC NHÓM”
Created by AM Word
2
CHM
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
Chúng ta cùng dự hai giờ giảng:
Giờ thứ nhất, giáo viên thuyểt trình say sưa. 20 phút đầu tiên học sinh rất chăm
chú, tay ghi chép liên tục. Lần lượt từng trang giấy được viết kín. 30 phút trôi qua, vài
học sinh quay ngang, quay dọc, thư giấy được chuyển đi, lác đác chỗ này có tiếng nói
chuyện riêng chỗ kia học sinh ngáp ngủ hoặc lim dim gà gật, thậm chí có em đã gục
xuống bàn. Khoảng 1/3 lớp vẫn học rất nhiệt tình. Giờ học kết thúc. Trên bảng, trong vở
dày đặc chữ của thầy.
Giờ thứ hai, giáo viên đặt câu hỏi và học sinh làm việc. Nhiều phương pháp giảng
dạy khác nhau được sử dụng linh hoạt. Cô giáo phỏng vấn nhanh, thuyết trình ngắn nội
dung bài giảng, sau đó các nhóm làm việc, đóng vai, tranh luận. Lớp học giải lao bằng
các trò chơi bổ ích. Không khí buổi học rất sôi nổi. Giáo viên cởi mở, vui vẻ và không cần
phải thao thao bất tuyệt nhưng học sinh vẫn tham gia nhiệt tình. Nhìn vào lớp chỉ thấy
“diễn viên chính” là các học sinh với nhiều hoạt động sôi nổi, nhiều ý kiến khác nhau được
đưa ra. Không ai có cơ hội để lơ là hay ngủ gật. Tất cả đều cuốn theo sự dẫn dắt của cô
giáo. Cuối giờ, kiến thức được tổng hợp trên bảng, trong vở là thành quả của cả lóp.
Những ý quan trọng được cô giáo nhấn mạnh, bổ sung. Nội dung bài học đã “thấm” vào
mỗi học trò.
Chúng ta thấy hai giờ học này có quen không? Giờ thứ nhất, giáo viên chỉ sử dụng
phương pháp thuyết trình. Giờ thứ hai, giáo viên sử dụng kết hợp các phương pháp
giảng dạy tích cực và phương pháp thuyết trình.
Sự khác biệt và hiệu quả của hai giờ học trên là gì? Người học thích giờ nào hơn?
Làm thế nào để giáo viên có phương pháp phù hợp, hiệu quả đối với từng nội dung, từng
đối tượng học khác nhau?
1. Phương pháp giảng dạy tích cực là gì?
Phương pháp giảng dạy tích cực, hay phương pháp giáo dục chủ động, phương
pháp sư phạm hiện đại… là những cách gọi để chỉ những phương pháp, cách thức, kỹ
thuật khác nhau làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn, người học được làm việc, được
sáng tạo Ví dụ: phương pháp làm việc nhóm, sắm vai, tình huống Đây là một nhóm
các phương pháp cụ thể kết hợp với phương pháp thuyết trình, giúp nâng cao chất
lượng dạy và học.
LỢI ÍCH CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC
Vậy người dạy và người học sẽ được gì khi áp dụng các phương pháp giảng dạy
tích cực?
2. Lợi ích đối với người dạy
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, giờ giảng của mỗi giáo viên trở
nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của
người thầy được đề cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng chuyên môn của người thầy sẽ
tăng lên nhờ áp lực của phương pháp, bởi nội dung kiến thức của từng giờ giảng phải
được cập nhật liên tục để đáp ứng các câu hỏi của người học trong thời đại thông tin
rộng mở.
Dạy học là quá trình trao đổi kiến thức giữa thầy và trò. Nếu thầy chỉ thuyết trình,
có gì nói nấy thì những gì thầy giảng chỉ là kiến thức một chiều. Có thể người học đã biết
những kiến thức ấy, hay đó là những nội dung không hữu ích đối với cuộc sống hiện tại
và tương lai của họ. Người thầy phải luôn đổi mới bài giảng cũng như phong cách đứng
lớp. Như vậy, người dạy sẽ học được từ học trò của mình rất nhiều kiến thức và kinh
nghiêm thực tế. Mối quan hệ thầy trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp qua việc giải quyết các
tình huống liên quan đến nội dung bài học và cuộc sống của người học.
3. Lợi ích đối với người học
Khi giáo viên dạy học bằng phương pháp giảng dạy tích cực, người học thấy họ
được học chứ không bị học. Người học được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm
của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người
thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. Họ hạnh phúc khi được học, được sáng tạo,
được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà họ ghi nhớ sâu kiến thức và
tăng khả năng áp dụng vào thực tế lên gấp 3-4 lần so với cách học thụ động một chiều.
Dạy bằng phương pháp giảng dạy tích cực chính là tìm mọi cách giúp người học
được chủ động trong việc học, cho họ được làm việc, được khám phá tiềm năng của
chính mình. Người dạy cần giúp người học có được sự tự tin, có trách nhiệm với bản
thân để từ đó chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng.
Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh, đã nói: “Để làm cho
tương lai trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị của chính
mình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”. Và muốn người học có
được sự tự tin và tin tưởng vào giá trị của chính mình, họ cần được học theo phương
pháp chủ động.
Chỉ khi người học được tự khám phá kiến thức, tự học, tự làm và tự bổ sung cho
nhau thì kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành động, thành
thói quen hàng ngày của họ.
4. Mối quan hệ thầy trò trong việc dạy và học
Với cách dạy đọc – chép, giáo viên là người rót kiến thức vào đầu học sinh và
người dạy giữ vai trò trung tâm. Nhưng kiến thức từ thầy có thể trở thành kiến thức của
trò không? Chắc chắn là không nhiều. Theo nhiều nghiên cứu khoa học về giáo dục thì
cách dạy đọc – chép chỉ giúp người học tiếp thu được 10 – 20% kiến thức.
Khi áp dụng phương pháp giáo dục chủ động, người học giữ vai trò trung tâm,
người thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ. Người học chủ động tìm kiếm tri thức và
có thể thu nhận kiến thức không chỉ từ thầy mà còn từ rất nhiều nguồn khác nhau.
Như vậy, vai trò của người thảy có giảm đi không? Xin khẳng định ngay là không.
Ngược lại, vai trò người thầy càng trở nên quan trọng. Giữa biển thông tin mênh mông,
điều gì cần gạn lọc, cách sử dụng ra sao và ứng dụng chúng vào cuộc sống như thế
nào Tất cả những điều ấy đều cần đến sự chỉ dẫn của người thầy.
Sự thay đổi này đòi hỏi chúng ta phải dạy và học như thế nào?
Với người học, các bạn cần hiểu rõ mình là ai và mình muốn là người như thế nào,
điều gì mình cần học và mình muốn học cái gì.
Với người dạy, mỗi thầy/cô càng phải phấn đấu, tu dưỡng nhiều hơn, tự học, tự
sáng tạo nhiều hơn để xứng đáng trong vai trò mới.
“Phương pháp chỉ là công cụ để giúp đạt được mục tiêu học tập.”
– Ulrich Lipp
Created by AM Word
2
CHM
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
1. Khắc phục những e ngại của người dạy và người học khi áp dụng các phương
pháp giảng dạy tích cực
1.1.Những e ngại của người dạy
a. E ngại lớp đông, không áp dụng được
Đây là e ngại do hiểu sai về các phương pháp giảng dạy tích cực. Thực tế là có rất
nhiều phương pháp giảng dạy tích cực phù hợp với các loại hình lớp học khác nhau.
Chẳng hạn, lớp đông có thể áp dụng phương pháp hỏi – đáp, nêu ý kiến – ghi bảng, hỏi
chuyên gia, đóng vai, trực quan hóa, phương pháp tình huống, phương pháp tia chớp,
phương pháp sàng lọc Thậm chí, ngay phương pháp nhóm cũng đã có nhiều giảng
viên áp dụng thành công với lớp trên 100 học viên. Điều này chứng tỏ sự thành công
không phụ thuộc vào phương pháp mà là vào bản lĩnh và kỹ năng quản lý lớp của người
thầy.
b. E ngại người học lười phát biểu, thụ động:
Nếu giao tiếp tốt và biết cách khuyến khích, người thầy sẽ khiến hầu như cả lớp
tham gia đóng góp ý kiến trong giờ học. Việc người học ngại phát biểu chính là do người
dạy chưa tìm được cách khơi lên ngọn lửa học tập ở học viên của mình. “Người học là
những bộ đuốc cần đốt cháy chứ không phải cái cốc để rót đầy”.
c. Ngại tốn thời gian, tiền bạc khi áp dụng:
Các phương pháp giảng dạy tích cực không hề tốn thời gian hay tiền bạc như nhiều
người vẫn nghĩ. Có những phương pháp chỉ cần 5-10 phút để tạo sự sôi nổi trong lớp,
giúp người học thu nhận kiến thức một cách dễ dàng như: phương pháp tia chớp,
phương pháp hỏi – đáp hay nêu ý kiến Tiền bạc hay trang thiết bị hiện đại không phải là
vấn đề cốt yếu của các phương pháp giảng dạy tích cực. Ngoài bảng có sẵn, hầu hết
các phương pháp đều không đòi hỏi trang bị thêm bất cứ phương tiện nào.
d. Sợ bị “cháy giáo án”:
Chỉ những người dạy một cách máy móc theo sách vở mới sợ “cháy giáo án”.
Người thầy giỏi cần biết chọn lọc nội dung để thiết kế buổi giảng sao cho hiệu quả nhất.
1.2.Những e ngại của người học
a. Ngại làm việc, chỉ thích ghi:
KHẮC PHỤC NHỮNG TRỞ NGẠI KHI ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG
DẠY TÍCH CỰC
Điều này xuất phát từ thói quen học theo kiểu truyền thống. Nhưng khó khăn này sẽ
được hóa giải nếu người học thấy được ích lợi từ việc học theo phương pháp chủ động.
Kinh nghiệm của tôi là chỉ sau một giờ đầu được học theo phương pháp tích cực, người
học sẽ có hứng thú và hưởng ứng ngay cách học này.
b. Ngại tự học trước khi đến lớp:
Ban đầu, ít có người học nào tự giác chuẩn bị bài học trước khi đến lớp. Để khắc
phục điều này, giáo viên có thể hướng dẫn cho họ học ở nhà bằng cách đặt câu hỏi ngắn
gọn, hấp dẫn về những gì mà họ cần chuẩn bị. Và giáo viên cũng cần tìm hình thức phù
hợp nhằm khen thưởng, động viên những người đã thực hiện tốt, ví dụ đặt câu hỏi để
kiểm ưa việc đọc sách ở nhà và cộng điểm thưởng cho những bạn trả lời tốt.
c. Tự ti, chua mạnh dạn phát biểu:
Giáo viên có thể khắc phục khó khăn này bằng cách khuyến khích, động viên hay
khen ngợi người học, nhằm tạo tinh thần làm việc sôi nổi trong cả lớp. Thậm chí, cách chỉ
định trực tiếp cũng rất hiệu quả để tạo cơ hội cho người học, bởi nhiều người tuy không
dám giơ tay nhưng rất muốn được phát biểu trước lớp.
d. Sợ thầy áp dụng phương pháp mới nhưng vẫn thi theo kiểu học thuộc
Nhà trường cần áp dụng việc ra đề thi mở, khuyến khích tư duy sáng tạo và phản
biện của người học. Đề thi nên mang tính ứng dụng cao để người học được sáng tạo,
phát huy cao nhất khả năng và tạo dấu ấn riêng. Khi áp dụng phương pháp chủ động, tôi
luôn ra đề mở, và dù nhà trường có ra đề đóng (bốc thăm từ ngân hàng đề thi) thì tôi
cũng hướng dẫn các học viên làm theo hướng mở, liên hệ thực tế nhiều.
e. Sợ kiến thức không được tổng hợp rõ ràng khi giảng viên áp dụng phương pháp
mới:
Điều này xảy ra là do một số giáo viên áp dụng chưa đúng cách thức giảng dạy của
các phương pháp giảng dạy tích cực, khiến người học không chốt lại được những kiến
thức cần thiết. Ví dụ, với phương pháp làm việc nhóm, có một số giáo viên cho người
học làm việc, phát biểu, nhưng sau đó không tổng kết lại nên người học không biết cuối
cùng thì điều gì là đúng. Với phương pháp chủ động, người thầy thường giảm việc nói
xuống dưới một nửa so với cách cũ nhưng phải đảm bảo phần quan trọng nhất là việc
tổng kết, bổ sung, định hướng kiến thức.
2. Những yêu cầu cần thực hiện để có gỉờ giảng thành công:
2.1.Tìm híéu kỹ vé người họa
Người dạy cần tìm hiểu một số thông tin cơ bản về người học, như thành phần
chính, độ tuổi, tỷ lệ nam/nữ, trình độ học vấn Đặc biệt là cần biết rõ nhu cầu, mong đợi
của họ đối với môn học và với người dạy để thiết kế nội dung bài giảng cũng như chọn
phương pháp phù họp nhất.
2.2.Chuẩn bị bài giảng:
Giáo viên chỉ chọn tối đa 5 thông điệp ý nghĩa nhất và cắt bớt những nội dung
không phù hợp. Để học sinh ghi nhớ thuận tiện, tốt nhất giáo viên nên tổ chức bài giảng
tuân theo quy tắc số 3. Chia bài giảng thành 3 phần, mỗi phần 3 ý,
Thay đổi linh hoạt cách thể hiện nội dung bằng các phương pháp giảng dạy chủ
động khác nhau.
Chuẩn bị tư liệu minh họa sinh động để trực quan hóa bài giảng.
2.3.Giao tiếp với người học
Người dạy cần tôn trọng, và hơn hết là nên làm bạn với người học. Thái độ thân
thiện, cởi mở, biết lắng nghe của thầy cô luôn được người học trân trọng. Sự khen ngợi,
khuyến khích đúng lúc, đúng chỗ của thầy sẽ giúp trò có cơ hội phát triển những tiềm
năng.
2.4.Rút kinh nghiệm sau từng giờ giảng:
Cảm nhận của người học đối với tiết học là rất quan trọng. Chỉ họ mới có thể cho
biết họ đã thu hoạch được gì qua từng giờ giảng, và người dạy cần thay đổi như thế nào
để tốt hơn. về vấn đề này, chúng tôi xin trích lại ý kiến cá nhân đã chia sẻ trên Báo Tuổi
Trẻ ngày 27/2/2009:
Bài học từ những lời góp ý của học trò
TT – Đọc bài “Người thầy không hoàn hảo” (Tuổi Trẻ ngày 26-2- 2009) tôi như
được sống lại với bao kỷ niệm của những ngày đầu đứng trên bục giảng làm cô giáo.
Ngày ấy, một sinh viên năm nhất đã góp ý với tôi rằng: “Cô ơi, cô nói hơi to, trong
khi loa lại ở gần khiến em nhức hễt cả tai rồi”. Từ góp ý này, tôi luôn ý thức điều chỉnh
âm lượng vừa phải cho dễ nghe và luôn hỏi Sinh viên rằng như vậy có nghe rõ không, có
to quá không. Rồi một học trò khác lại thì thầm với tôi: “Cô ơi, cô nên trang điểm một
chút khi lên lớp, như vậy trông cô sẽ xinh hơn và chúng em có thêm cảm hứng để học”.
Đó là những lời góp ý đầu tiên học trò dành cho tôi. Lời góp ý giản dị nhưng lại có ý
nghĩa rất lớn với tôi trong việc ý thức giữ gìn hình ảnh trước học trò, cả về hình thức lẫn
tư cách.
Mới đây, lời góp ý của học trò đã khiến tôi suy nghĩ rất nhiều: “Em thấy cô giảng
bài rất tình cảm, gần gũi, nhưng khi gặp cô ngoài giờ học em cứ thấy xa cách sao ấy, có
rất nhiều điều em muốn chia sẻ với cô mà chưa dám”. Từ góp ý này, tôi đã nghiêm túc
nhìn lại mình và nhận ra rằng đôi khi tôi đã vô tình trở thành người lạnh lùng và khó gần.
Và còn rất nhiều nhận xét chân tình khác mà tôi nhận được từ học trò trong suốt
tám năm đứng lớp. Dù học trò của tôi là các em sinh viên hay các anh chị học viên lớn
tuổi, họ đều có một điểm chung là rất chân tình trong việc giúp cô giáo dạy tốt hơn.
Nếu ai đó hỏi làm cách nào để dạy tốt, tôi sẽ nói kinh nghiệm quan ttọng nhất mà
tôi có được là chân thành tiếp thu ý kiến nhận xét của học trò. Với bất cứ lớp nào, khi
dạy được một nửa chương trình hoặc vào buổi kết thúc môn học, tôi đều xin nhận xét
của cả lớp để hoàn thiện hơn nữa bài giảng và cách dạy của mình. Tôi đề nghị cả lớp
không tên vào phiếu để nhận xét được khách quan. Và chính cách làm này đã cho tôi
nhiều bài học quý để hoàn thiện mình khi đứng lớp (từ nội dung bài giảng cho đến phong
cách, ứng xử của giảng viên).
PHẠM THỊ THÚY
Created by AM Word
2
CHM
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
1. Nguyên tắc 1: Liên hệ đến thực tế
“Giờ giảng tốt thường được bất đầu từ thực tiễn và kết thúc bằng thực tiễn.”
– Ulrich Lipp
Những gì được dạy trên lớp phải gắn với cuộc sống bên ngoài, ở quá khứ, hiện tại
và tương lai của người học. Với người lớn tuổi, nếu nội dung học không liên quan đến
công việc đang làm, họ sẽ không muốn học. Họ chỉ có thể hiểu lý thuyết qua ví dụ thực
tế.
Vậy Anh/Chị đã liên hệ thực tế như thế nào trong bài giảng?
Đưa ra ví dụ liên quan đến công việc hàng ngày của người học là một cách mở bài
tốt. Ví dụ này khiến người nghe tò mò và nhận ra rằng giờ học sẽ đề cập đến công việc
của họ, gần gũi và hữu ích với họ. Khi người học thấy rõ lợi ích của việc học, họ sẽ tiếp
thu bài tốt hơn, học tập trung hơn. Sau khởi đầu thuận lợi, người dạy có thể đưa ra phần
lý thuyết như định nghĩa, giải thích, quy tắc Đến cuối bài, người dạy cần phải thiết lập
lại mối liên hệ giữa bài học với thực tế của người học.
Bài học được bắt đầu bằng thực tiễn và kết thúc cũng bằng thực tiễn, như thế mới
đảm bảo được việc học đi đôi với hành.
Một giờ giảng tốt, có hiệu quả cần gợi mở và thu hút người học bằng những câu hỏi
liên quan đến thực tế công việc của họ, cung cấp cho họ kiến thức mới về lý thuyết và
kết thúc bằng các yêu cầu rất thực tế.
Để có thời gian liên hệ thực tế, nội dung bài giảng nên được cắt giảm và chỉ tập
trung vào những nội dung thực sự cần thiết. Thực tế cho thấy, giờ học ở Việt Nam hiện
nay phải truyền đạt quá nhiều nội dung, vì vậy mà mỗi giáo viên cần phải linh hoạt trong
việc chọn lọc điều gì là có ích nhất cho người học.
2. Nguyên tắc 2: Tạo không khí tích cực trong giờ giảng
Việc học không phải lúc nào cũng là công việc vất vả. Học và chơi không đối nghịch
nhau, mà ngược lại. Khi người học tìm thấy niềm vui trong học tập thì việc học cũng trở
nên dễ dàng hơn. Trách nhiệm của người dạy là hãy giúp người học cảm nhận được học
là niềm vui.
Những cách khác nhau để tạo nên không khí tích cực, vui vẻ trong giờ học:
NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG GIẢNG DẠY
– Trò chơi khởi động tạo sự hào hứng (xin vui lòng xem Phần Trò chơi sư phạm);
– Tôn trọng và quan tâm đến người học;
– Mang đến nhiều nụ cười hơn;
– Cử chỉ thân thiện, đặc biệt là ánh mắt;
– Linh hoạt thay đổi phương pháp giảng để tạo sự sinh động;
3. Nguyên tắc 3: Trực quan hóa – Trình bày nội dung bằng hình ảnh
Nếu chỉ giảng bằng cách thuyết trình, lượng kiến thức bị thất thoắt sẽ là bao nhiêu
phần trăm? Các nghiên cứu đã chỉ ra con số ấy là 80%.
Con người không chỉ học bằng cách nghe, mà còn học được nhiều bằng cách quan
sát. Vì thế, tất cả những nội dung quan trọng cần phải được trực quan hóa, và trong suốt
tiết học phải làm cho người học có thể nhìn thấy càng lâu càng tốt.
Trực quan hóa được thực hiện thông qua các phương tiện giảng dạy, như: bảng,
bảng ghim, bảng lật, trình chiếu bằng máy, dụng cụ trực quan, tranh, ảnh, hình vẽ Mỗi
khi giảng xong một nội dung nào đó, người dạy nên dán, treo quanh lớp học để kiến thức
luôn hiển thị trước mắt người học.
4. Nguyên tắc 4: Khuyến khích người học tự làm
Không ai có thể học được trong một thời gian dài nếu chỉ ngồi một chỗ và tiếp thu
với tinh thần thụ động. Khuyến khích người học có nghĩa là làm cho họ vận động, chủ
động, tích cực. Khi được khuyến khích, người nghe sẽ trở nên chủ động và học hỏi với
tinh thần sảng khoái, sống động. Nếu không, khó ai có thể tập trung nghe giảng suông
được quá 20 phút.
Giáo viên có thể tổ chức học chủ động bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn:
– Tạo cơ hội cho người học đóng góp ý kiến, làm việc nhóm, tham gia hỏi – đáp
– Làm bài tập;
– Thực hành;
– Người học truyền đạt lại nội dung vừa học cho người khác, (xin vui lòng xem thêm
bài Các phương pháp bổ trợ khác: Phương pháp Học bằng dạy học);
5. Nguyên tắc 5: Chốt lại nội dung giờ giảng
Chốt lại nội dung hay neo kiến thức là một việc quan trọng trong quá trình giảng dạy
để người học nhớ lâu những kiến thức đã học. Thiếu điều này cũng giống như con thuyền
bị thiếu mất mỏ neo!
Việc chốt lại nội dung có thể được thực hiện bằng nhiều cách:
– Dành thời gian cho người học ghi chép ý chính. Ví dụ: viết thư cho chính mình,
(xin vui lòng xem bài Các phương pháp bổ trợ khác);
– Nhắc lại và nhấn mạnh những nội dung quan trọng;
– Đặt câu hỏi kiểm tra bài cũ;
– Làm bài tập;
– Thực hành;
– Liên hệ thực tế;
– Yêu cầu người học giảng lại;
– Trưng bày nội dung cơ bản trong suốt thời gian học;
– Trò chơi đố vui: ví dụ đoán ô chữ như trò Chiếc nón kỳ diệu;
– Cuộc thi neo kiến thức bằng câu đố, (xin vui lòng xem Phương pháp Neo kiến thức
bằng câu đố);
Các tiêu chí để người dạy có thểtự đánh giá một giờ giảng tốt:
1. Các phương pháp và phương tiện có được tôi sử dụng linh hoạt?
2. Tôi có khuyến khích người học tham gia tích cục, và tôi có bao quát được toàn
bộ lớp học?
3. Tôi có độc thoại liên tục hơn 20 phút?
4. Tôi có trực quan hóa các nội dung chính của bài học?
5. Nội dung và thời gian của bài giảng có được điều chỉnh để duy trì sự chú ý của
người học?
6. Tôi có “neo” lại kiến thức cho người học?
Created by AM Word
2
CHM
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
Các giáo viên Việt Nam thường nói: “Tôi soạn giáo án”, hay Đây là giáo án của tôi”.
Họ ít khi sử dụng thuật ngữ “kế hoạch bài giảng”. Chúng tôi cho rằng cả hai cách gọi đều
hay, đều hợp lý. Nhưng điều quan trọng là việc chuẩn bị ấy phải đảm bảo khi lên lớp
chúng ta hoàn toàn tự tin, làm chủ giờ giảng của mình và người học cảm thấy hứng thú,
say mê học tập.
Một kế hoạch bài giảng bao gồm các nội dung:
– Chủ đề
– Đối tượng
– Số lượng
– Thời gian
– Mục tiêu
– Tài liệu tham khảo
– Kế hoạch chi tiết
Một số gợi ý:
1. Chủ đề:
Chủ đề hay tên bài giảng phải được ghi to, rõ ràng ngay trang đầu tiên của kế
hoạch bài giảng. Ví dụ: “Văn hóa mặc của người Việt”, hay “Hình ảnh người phụ nữ trong
thơ Nguyễn Bính”.
2. Đối tượng:
Vì sao phải xác định đối tượng học?
Giáo viên phải tìm hiểu đối tượng mà chúng ta chuẩn bị giảng dạy xem họ là ai. Họ
là sinh viên hệ chính quy, học sinh cấp 3, hay những người đã đi làm ? Họ là cán bộ
Đoàn thanh niên hay cán bộ của Hội Phụ nữ? Độ tuổi của những người theo học? Việc
tìm hiểu này rất quan trọng, bởi một kế hoạch bài giảng không thể dùng chung cho mọi
đối tượng. Cùng là một nội dung, nhưng khi đối tượng khác nhau thì kế hoạch bài giảng
cũng phải khác nhau, từ việc phân bổ thời gian trong bài giảng, khối lượng kiến thức,
phương pháp và phương tiện giảng dạy, cho đến cách thức tiến hành kiểm tra, thi, v.v.
Hoạt động:
LẬP KẾ HOẠCH BÀI GIẢNG
Tìm hiểu về người học trong một lớp đào tạo phương pháp sư phạm
Ulrich Lipp.
Câu hỏi 1: Anh/chị làm giáo viên được bao nhiêu năm rồi?
Người học sẽ đứng theo 1 đường thẳng trên lớp theo trật tự từ nhiêu năm đến ít
năm.
= > Lipp: Các anh chị có thể học hỏi lẫn nhau, người trẻ học từ người nhiều kinh
nghiệm, và người trẻ có thể động viên người đã đứng lớp lâu năm dũng cảm tiếp nhận
cái mới.
Câu hỏi 2: Giảng dạy chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong tổng số công việc ở
trường của anh/chị?
Câu hỏi 3: Tỷ lệ phần trăm thuyết trình trong giảng dạy của anh/chị?
Mỗi khi đặt câu hỏi xong, người hỏi sẽ yêu cầu mọi người đứng vào đường thẳng
theo số năm, số phần trăm và có thể hỏi kỹ hơn đối với một số người. Ví dụ: ngoài
thuyết trình, anh/chị còn dùng những phương pháp nào?
= > Lípp:
– Hôm nay chúng ta tìm hiểu nhiều vẻ nhau để làm gì?
– Nguyên nhân sâu xa của việc ấy?
Chia 2 người vào 1 nhóm, mỗi nhóm tìm 1 nguyên nhân.
– Kết quả thảo luận:
Xác định đối tượng người học để đưa ra phương pháp phù hợp.
Xác định nội dung chính cần học.
Việc làm quen là một phần của nội dung chương trình đào tạo.
Làm quen để tạo ra phương pháp hấp dẫn một cách hợp lý nhằm phát huy hiệu quả
của chương trình đào tạo hiện đại.
Thấu hiểu nguyên vọng của người học để đưa ra phương pháp hợp lý nhất.
Nâng cao chất lượng đào tạo.
Trích Nhật ký đợt học thứ 1 (Modul 1) lớp MT4 9 giờ 30 ngày 24/8/2009
3. Số lượng:
Chúng ta cần quan tâm đến tổng số người học trong lớp để nhằm lựa chọn phương
pháp, phương tiện giảng dạy cho phù hợp. Ví dụ: Lớp đông người (từ 81 người trở lên),
khi áp dụng phương pháp làm việc nhóm thì không thể chia nhóm bằng cách yêu cầu
người học di chuyển thành nhiều nhóm ở nhiều vị trí khác nhau trong lớp, bởi như thế sẽ
rất lộn xộn, mất trật tự và khó quản lý. Trong trường hợp này, cách tốt nhất là để người
học ngồi tại chỗ và chia nhóm theo dãy bàn. Nhưng với lớp ít người thì việc chia nhóm
theo cách linh hoạt lại rất hiệu quả và tạo hứng thú cho người học. Người dạy có thể chia
nhóm theo cách đếm số hoặc sở thích về màu sắc, loài hoa, rồi di chuyển về địa điểm
đã được xác định. Với phương tiện giảng dạy cũng vậy, nếu lớp đông người thì bảng
viết, tranh ảnh, hình vẽ và các giáo cụ trực quan khác phải đủ lớn để cả lớp có thể quan
sát và theo dõi được.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần quan tâm đến số lượng nam, nữ, trình độ học vấn, khả
năng nhận thức của người học để biết cách khuyến khích, động viên đối với từng đối
tượng nhằm giúp họ có thể phát huy tốt nhất năng lực của bản thân.
4. Thời gian:
Điều người dạy luôn lo ngại là hết giờ mà nội dung vẫn còn dang dở (“cháy giáo
án”) hoặc giảng xong rồi mà thời gian vẫn còn nhiều (“ướt giáo án”). Giảng vừa khớp thời
gian – không thừa cũng không thiếu – là một trong những tiêu chuẩn của người dạy giỏi.
Các giáo viên khi soạn giáo án hay lập kế hoạch bài giảng cân phải phân bổ thời gian
một cách hợp lý cho từng nội dung, vì thực hiện tốt việc này mới có thể đảm bảo đúng
tiến độ chương trình đề ra.
5. Mục tiêu:
Mục tiêu là cơ sở cho việc lập kế hoạch bài giảng. Đó là việc mô tả sự thay đổi của
mỗi người học sau một quá trình giảng dạy của người thầy. Hay nói cách khác, mục tiêu
là cái đích mà cả người dạy và ngưòi học phải đạt được sau một quá trình dạy và học.
Việc làm rõ mục tiêu sẽ giúp nâng cao được chất lượng giảng dạy, và khi đó mới
có cơ sở để đánh giá hiệu quả của việc dạy và học.
Một bài giảng cần đạt được những mục tiêu sau đây:
Về kiến thức: Người học tiếp thu được gì? Họ biết và hiểu được những gì?
Về kỹ năng: Người học có thể làm được gì? Họ có thực hành được không? Có thể
vận dụng kiến thức vào thực tiễn như thế nào?
Về tinh thần, thái độ: Thái độ của người học đối với bài giảng như thế nào? Họ có
mong muốn gì sau khi học xong bài?
Ví dụ: Học xong bài Kỹ năng giao tiếp nơi công sở, người học:
– Về kiến thức: Người học hiểu được đặc thù của giao tiếp nơi công sở, yêu cầu,
nguyên tắc giao tiếp nơi công sở.
– Về kỹ năng: Người học được thực hành kỹ năng lắng nghe, kỹ năng nói, kỹ năng
khen/góp ý.
– Về thái độ: Người học coi trọng việc nâng cao kỹ năng giao tiếp nơi công sở, và
có ý thức rèn luyện kỹ năng này.
6. Tài liệu tham khảo:
Trách nhiệm của người dạy là phải cung cấp cho người học những tài liệu cần thiết
có liên quan đến bài giảng và môn học nhàm giúp họ thuận lợi trong việc nghiên cứu và
học tập.
Có thể có hai loại tài liệu: tài liệu bắt buộc (giáo trình) và tài liệu tham khảo.
Người dạy có thể cung cấp trực tiếp đến người học tài liệu hoặc giới thiệu tên tác
giả, tác phẩm, nhà xuất bản và địa chỉ có thể tìm kiếm.
7. Kế hoạch chỉ tiết
Đây là những gợi ý cho một kế hoạch bài giảng thực hiện trong 45 phút, các giáo
viên có thể tham khảo và vận dụng linh hoạt, phù hợp với bài giảng chuyên môn của
mình.
THỜI
GIAN
NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP PHƯƠNG TIỆN
5′
Mở đâu bài giảng
-Tự giới thiệu
– Làm quen
– Dẫn dắt vào bài giảng
PP Tia chớp
– Câu hỏi?
Bảng
7′
Nội dung 1:
-………
-…………
PP Hỏi-Đáp
– Câu hỏi?
Bảng, phấn
-…………
8′
Nội dung 2:
-………
-…………
-…………
PP Nêu ý kiến
ghi lên bảng
– Câu hỏi?
Bảng, phấn
20′
Nội dung 3:
-………
-…………
-…………
PP Làm việc
nhóm
Bảng, phấn, giấy
khổ AO, bút dạ
nhiều màu, băng
keo
5′ Kết thúc: Chốt kiến thức
Thuyết trình +
Hỏi – Đáp
– Câu hỏi?
Bảng,phấn
Ví dụ:
KẾ HOẠCH GIỜ GIẢNG
1. Chủ đề: Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xã hội hóa.
2. Đối tượng: Sinh viên.
3. Số lượng: 100 người, độ tuổi trung bình 21, chưa có kinh nghiệm làm việc.
4. Thời gian: 45 phút.
5. Mục tiêu giờ giảng:
– Kiến thức: Sinh viên hiểu được quá trình xã hội hóa là gì và các nhân tố chủ yếu
ảnh hưởng đến quá trình xả hội hóa.
– Kỹ năng: Phân tích được những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xã hội hóa của
bản thân.
– Thái độ: Rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình xã hội hóa của bản thân mỗi
sinh viên.
6. Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Xã hội học đại cương, tác giả Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng.
7.Kế hoạch chi tiết:
THỜI
GIAN
NỘI DUNG PHƯƠNG
PHÁP
PHƯƠNG
TIỆN
5′
Kể chuyện về một trẻ em hư, hỏi sinh
viên tìm nguyên nhân tại sao trẻ hư:
do gia đình, bạn bè hay do bản thân
em
– Phương
pháp: Mở
đầu bài
giảng
Bảng
2’
– Ôn lại bài cũ bằng cách đặt câu hỏi:
Khái niệm xã hội hóa là gì?
– Kết nối: Nhắc lại khái niệm xã hội
hóa. Tiết này chúng ta sẽ tìm hiểu
những nhân tố ảnh hưởng đến quá
trình xã hội hóa. Trước hết chúng ta
tìm hiểu quá trình xã hội hóa là gì?
5′
– Giảng cho sinh viên hiểu về quá trình
xã hội hóa.
– Chiéu định nghĩa quá trình xã hội hóa
cho sinh viên ghi nhớ.
–
Thuyếttrình
Máy chiếu
15′
– Đặt câu hỏi: Theo anh/chị thì quá
trình xã hội hóa của mỗi người chịu
ảnh hưởng của những nhân tố nào?
Ghi câu hỏi lên bảng.
– Mời 2 sinh viên lên ghi ý kiến của
các bạn.
– Khuyến khích sinh viên phát biểu ý
kiến.
– Ghi tất cả các ý kiến lên bảng.
– Giáo viên tóm lại các ý kiến quan
trọng.
– Phương
pháp Nêu ý
kiến ghi lên
bảng
Bảng,
Máy chiếu
Tổng kết: Nhân tố khách quan và chủ
quan:
– Nhân tố khách quan là môi trường
kinh tế – văn hóa – xã hội, gia đình,
– Phương
12′
nhà trường, bạn bè.
– Nhân tố chủ quan là bản thân mỏi
người, cụ thể là sự hiểu biết, kinh
nghiệm sống, kỹ năng giao tiếp, lòng
ham học hỏi
pháp
Thuyết
trình
6′
Nêu kiến thức, gọi 2 sinh viên:
– Nhắc lại quá trình xã hội hóa là gì và
các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
quá trình xã hội hóa.
– Chiếu nội dung tiết giảng cho sinh
viên nhìn lại để nêu kiến thức trong
đầu họ.
– Đề nghị sinh viên liên hệ, rút kinh
nghiệm cho bản thân: Làm thế nào để
quá trình xã hội hóa của mình đạt kết
quả tối ưu?
– Phương
pháp Hỏi –
Đáp
Máy chiếu
Created by AM Word
2
CHM
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
Phương pháp Tia chớp, hay còn gọi là phương pháp Phỏng vấn nhanh, là một
phương pháp giúp mở đầu bài giảng, hay nhằm thu thập thông tin nhanh từ phía người
học rất hiệu quả.
Các bước thực hiện phương pháp Tia chớp:
1. Sắp xếp lớp theo hình thức phù hợp;
2. Giáo viên đặt câu hỏi;
3. Người học trả lời;
4. Tổng kết nhanh và định hướng vào bài học.
Cách thức tiến hành:
1. Sắp xếp lớp theo hình thức phù hợp:
Nếu dưới 30 người học, nên sắp xếp cả lớp đứng theo hình tròn.
Nếu lớp đông người học, cần chuẩn bị micro không dây để có thể phỏng vấn được
nhanh và nhiều người.
2. Giáo viên đặt câu hỏi:
Câu hỏi phải hấp dẫn, ngắn gọn, gây được sự chú ý.
Giáo viên hỏi nhanh từng người.
Dùng micro hay một dụng cụ giả làm micro đưa vào trước từng người khi hỏi như
phóng viên phỏng vấn.
3. Người học trả lòi:
Yêu cầu người học trả lời nhanh và ngắn gọn.
Nếu người được hỏi mà chưa có câu trả lời, hãy bỏ qua và chuyển ngay sang hỏi
người khác.
Nên hỏi khoảng 15-20 người trong mỗi lần áp dụng phương pháp này.
4. Tổng kết nhanh và định hướng vào bài học:
Đưa ra tổng kết một cách ngắn gọn.
Kết nối thông tin đó vào bài học.
PHƯƠNG PHÁP “TIA CHỚP”
Những lưu ý khi áp dụng phương pháp tia chớp:
Không thảo luận, bình luận hay giải thích câu trả lời.
Cần tiến hành nhanh mọi thao tác. Ví dụ, gọi đích danh người học phát biểu thì thời
gian có câu trả lời sẽ nhanh hơn.
Phương pháp này có thể áp dụng ở mọi loại hình lớp học và mọi thời điểm trong bài
giảng.
Created by AM Word
2
CHM
CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
Khi cần mở rộng hiểu biết và nâng cao nhận thức cho người học về một vấn đề hay
một nội dung trong chương trình giảng dạy của mình, các giáo viên nên sử dụng phương
pháp Hỏi chuyên gia. Để phương pháp này phát huy hiệu quả, người học phải là người
đã nắm bắt được một cách cơ bản những tri thức đó. Theo kinh nghiệm của chúng tôi,
người học thường ít khi chủ động đặt câu hỏi hay nêu những thắc mắc của họ sau mỗi
phần học. Nhưng nếu giáo viên áp dụng phương pháp này, điểm yếu ấy sẽ được khắc
phục một cách dễ dàng và qua đó ta sẽ hiểu họ cần bổ sung những gì. Đây là phương
pháp có sức thuyết phục cao do người học sẽ được giải đáp vấn đề một cách thỏa đáng
cả về lý luận lẫn thực tiễn bởi các chuyên gia trong lĩnh vực mà họ quan tâm.
Các bước thực hiện phương pháp Hỏi chuyên gia:
1. Nêu chủ đề
2. Giới thiệu chuyên gia (nếu cần)
3. Đề nghị người học đặt câu hỏi
4. Thu thập câu hỏi
5. Trả lời các câu hỏi
6. Giáo viên tổng kết
Cách thức tiến hành:
1. Nêu chủ đề:
Nêu rõ mục đích của cuộc trao đổi.
Làm rõ nội dung cần trao đổi.
Định hướng để người học thấy cần thiết và muốn hỏi về chủ đề nêu ra.
2. Giới thiệu chuyên gia (nếu cần):
Chuyên gia có thể là: giáo viên, khách mời bên ngoài hoặc cũng có thể là chính
người trong lớp có kiến thức chuyên sâu về đề tài đã nêu ra.
Nếu giáo viên đồng thời là chuyên gia thì không cần giới thiệu.
Nếu chuyên gia là khách mời ngoài thì cần phải giới thiệu đầy đủ, ngắn gọn về
chuyên gia, đặc biệt nhấn mạnh về khả năng chuyên sâu của chuyên gia trong lĩnh vực
PHƯƠNG PHÁP “HỎI CHUYÊN GIA”
Do đó, cuốn sách này sẽ không có những lập luận thiên về khoa học hàn lâm, màbạn sẽ hài lòng với các hướng dẫn thiết thực, dễ hiểu và dễ vận dụng. Bạn sẽ biết cách mởđầu bài giảng như thế nào để lôi cuốn sự chú ý quan tâm của người học ngay từ những giây phútđầu tiên của giờ học ; cách neo chốt kiến thức và kỹ năng giúp người học nhớ được bài lâu hơn ; cách lập kế hoạch bài giảng chi tiết cụ thể sao cho tương thích giữa nội dung – phương phápphương tiện và thời hạn cho một tiết giảng / bài giảng ; cách trực quan hóa bài giảng đểcho giờ học trở nên sinh động hơn, hiệu suất cao hơn Cuốn sách còn giúp các bạn có thểsử dụng linh động các phương tiện đi lại đa phần trong giảng dạy, từ chiếc bảng đen đầy tiệních cho đến chiếc máy chiếu văn minh, cũng như triển khai xong kiến thức và kỹ năng tiếp xúc với ngườihọc, kỹ năng và kiến thức nhận xét, góp ý cho đồng nghiệp, giải đáp 1 số ít vướng mắc khi áp dụngphương pháp vào giảng dạy trình độ của các bạn. Nếu các bạn muốn học nâng cao để trở thành những giảng viên đào tạo và giảng dạy phươngpháp, các bạn hãy đọc trong cuốn sách này ” Chương trình giảng dạy Thạc sĩ Huấn luyệnphương pháp sư phạm ” và các hướng dẫn có ích khác. Chắc rằng bạn sẽ tìm thấy nhữngđiều mình đang cần và sẽ tiến tới thành công xuất sắc ! Với mong ước nâng cao chất lượng giảng dạy và hiệu suất cao huấn luyện và đào tạo đồng thời đápứng mong ước chân chính là chứng minh và khẳng định năng lượng và vị trí của bất kể người giảng viênnào, chúng tôi đã cố gắng nỗ lực biên soạn và ra mắt đến các bạn cuốn sách này. Mặc dùrất nỗ lực, tuy nhiên chắc rằng cuốn sách sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Mong đượcbạn đọc góp phần quan điểm để chúng tôi hoàn thành xong hơn trong lần tái bản sau. Mọi quan điểm góp ý, xin gửi về : Ths. Phạm Thị Thúy, giảng viên đào tạo và giảng dạy phương pháp sư phạm Điện thoại : 0918604 397. Email : [email protected] Nguyễn Thị Minh Phượng, giảng viên huấn luyện và đào tạo phương pháp sư phạm. Điệnthoại : 0912440870. Email : [email protected] úng tôi xin chân thành cảm ơn. Nhóm tác giảLỜI NÓI ĐẦUVới vai trò là một trong những người kiến thiết chương trình giảng dạy Thạc sĩ Huấnluyện – giảng viên khung tại Nước Ta, tôi vinh dự góp phần vào quyển sách này để quađó các Thạc sĩ Huấn luyện được chuyển giao những sáng tạo độc đáo cơ bản của chương trình, sẽ ” nhiễm loại virut có ích ” của các phương pháp giảng dạy tích cực. Và tôi sẽ rất vuimừng nếu họ truyền được sự đam mê các phương pháp dạy và học tích cực ra khắp đấtnước Nước Ta. Những sáng tạo độc đáo cơ bản của chương trình đào tạo và giảng dạy Thạc sĩ Huấn luyệnKhông khi nào chúng tôi có dự tính khuyên giảng viên từ bỏ phương pháp thuyếttrình. Hiếm khi tôi được trải nghiêm những giờ thuyết trình tốt như ở Nước Ta. Tôi khôngdùng từ “ nghe thuyết trình ”, mà là thưởng thức, vì thẩm mỹ và nghệ thuật thuyết trình của các đồngnghiệp Nước Ta không chỉ hạn hẹp trong ngôn từ. Việc sử dụng phương tiện đi lại hỗ trợtrong giờ giảng – đa phần là cái bảng thân quen và hiệu suất cao – được các bạn thực thi rấttốt. Các bạn cũng biết cách dùng sự biểu cảm của nét mặt và sự hoạt động của cơthể để lôi cuốn sự chú ý quan tâm của người nghe. Nhưng bài thuyết trình chỉ hoàn toàn có thể trở nên can đảm và mạnh mẽ và có tính năng khi nó được sửdụng sinh động bên cạnh các phương pháp giáng dạy khác. Vì nguyên do này mà chương trình đào tạo và giảng dạy Thạc sĩ Huấn luyện sinh ra với tiềm năng làmcho các đồng nghiệp Nước Ta hứng thú với các phương pháp mới, để qua đó hoàn toàn có thể kéongười học ra khỏi trạng thái thụ động. Chỉ khi chính người học trở nên tích cực, và chỉ khingười học tự mình tham gia, thì việc học mới trở nên tích cực. Người phiên dịch và cũnglà bạn của tôi – nói với tôi một câu tục ngữ Nước Ta biểu lộ tuyệt vời sáng tạo độc đáo trên : “ Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm ”. Cùng với sáng tạo độc đáo cơ bản này, chúng tôi muốn trang bị cho các đồng nghiệp ViệtNam những kỹ năng và kiến thức và kiến thức và kỹ năng để hoàn toàn có thể thực thi được giờ giảng theo hướng hiệnđại, và hơn hết là giờ giảng hiệu suất cao. Đồng thời, họ cũng có nghĩa vụ và trách nhiệm phải chuyểngiao những kiến thức và kỹ năng đó cho các giảng viên khác. Niềm vui khi nhìn đồng nghiệp trên bục giảngTrong những lần sang Nước Ta gần đây, tôi không phải thao tác nhiều trongchương trình huấn luyện và đào tạo Thạc sĩ Huấn luyện nữa. Phần lớn thời hạn tôi ngồi ở cuối lớp vàquan sát cách các Thạc sĩ Huấn luyện giảng bài trước các giảng viên. Những gì nhìn thấylàm tôi rất mừng cuống. Các Thạc sĩ Huấn luyện triển khai bài giảng một cách tự tin vàvững vàng với những phương pháp tích cực. Họ không sao chép những gì tôi đã làm, màmỗi người đều kiến thiết xây dựng một phong thái riêng dựa theo thế mạnh của họ và đặc trưng củangười học Nước Ta. Các phương pháp được đổi khác đề tương thích với điều kiện kèm theo cơ sởvật chất, và cũng có những cách làm trọn vẹn mới được phát minh sáng tạo ra. Tất cả các bài giảng đều được triển khai với một trình độ rất cao, và như vậy thìcác Thạc sĩ Huấn luyện phương pháp sư phạm trọn vẹn hoàn toàn có thể giảng dạy được ở nướcngoài. Một nữ đồng nghiệp Nước Ta khi đến thăm một trường ĐH ở Đức đã phànnàn với tôi rằng phương pháp giảng dạy ở đó chưa đạt chất lượng của các Thạc sĩ Huấnluyện. Chị nói : “ Giờ lên lớp ở trường ĐH ấy thường chỉ là những giờ giảng tẻ nhạt ”. Điều đó làm tôi ngượng một chút ít, nhưng đồng thời cũng cho thấy một chuẩn mực caocủa các đồng nghiệp Nước Ta. Phải chăng người Nước Ta học khác ? Mỗi khi sẵn sàng chuẩn bị đi công tác làm việc quốc tế, nhiều người châu Âu được học về nhữngkhác biệt giữa các nền văn hóa truyền thống, và quả thật là có nhũng độc lạ về văn hóa truyền thống giữa cácquốc gia. Người Nước Ta cũng luôn muốn tìm hiểu và khám phá và hỏi, người Đức học như thế nào ? Đối với tôi, trong suốt nhiều năm ở Nước Ta, những sự độc lạ đó không quan trọnglắm. Quan trọng hơn là nhận thức rằng : về cơ bản, con người ở mọi nơi trên toàn cầu đềuhọc rất giống nhau. Tôi sẽ lý giải điều này bằng ba vấn đề sau đây : 1. Người học cần một quan hệ tốt với giáo viênCác nghiên cứu và điều tra đã chỉ ra rằng, học không có xúc cảm sẽ không thành công xuất sắc. Mộtphần quan trọng của cảm hứng này là mối quan hệ tích cực giữa người dạy và người học. Một giáo viên hoạt động giải trí như một “ cỗ máy giảng ” hoàn hảo nhất sẽ không khuyến khích việc họcnhiều bằng một người thầy bằng xương bằng thịt, giảng bài bằng sự vui tươi, cởi mở, tôntrọng và vui nhộn. Người thầy như là một tấm gương, nhưng không cần phải là hoànhảo, vì những sai lầm đáng tiếc nhỏ là không thé tránh khỏi. Tại Nước Ta, tôi nhận thấy các giáoviên luôn sợ mắc sai lầm đáng tiếc hoặc không vấn đáp được câu hỏi của người học. Xét trênphuơng diện sư phạm thì nỗi sợ đó là trọn vẹn không có cơ sở. 2. Cách học tích cực ngày càng quan trọngNhư trên đã trình diễn, khuyến khích cách học tích cực là tiềm năng trọng tâm củachương trình đào tạo và giảng dạy Thạc sĩ Huấn luyện. Chúng tôi biết rằng người học ở khắp nơi trênthế giới sẽ học tập hiệu suất cao nhất nếu họ tự tiếp thu nội dung dưới sự hướng dẫn củanguời dạy và nếu họ vận dụng được ngay các kỹ năng và kiến thức ấy. Chương trình huấn luyện và đào tạo Thạc sĩHuấn luyện của chúng tôi thành công xuất sắc chính là vì tổng thể các mô-đun ( khóa học ) đều có yêucầu thực hành thực tế trong trong thực tiễn. Đối với người học, đó là một thử thách lớn khi phải ápdụng ngay những phương pháp mới làm quen vào việc làm thực tiễn của họ – như hỏichuyên gia hoặc nêu quan điểm để ghi lên bảng – trong khi các đồng nghiệp và chuyên giaquan sát ở phía dưới. Cách thực hành thực tế đó là một áp lực đè nén, nhưng là một áp lực đè nén tích cựcnhằm khuyến khích và nâng cao chất lượng dạy và học. 3. Học là phải có sự liên hệ với thực tẽLý thuyết và trong thực tiễn gắn bó với nhau như ngày với đêm. Nếu giờ giảng chỉ xoayquanh những kỹ năng và kiến thức sách vở và người học không nhận thấy mối quan hệ với cuộcsống thực tại, nghĩa là buổi học không bảo vệ nhu yếu. Kiến thúc kim chỉ nan hoàn toàn có thể đượcngười học ghi nhớ trong các kỳ kiểm tra, nhưng khi thi xong, kiến thức và kỹ năng đó sẽ biến mất. Lý thuyết là quan trọng để tất cả chúng ta lý giải quốc tế và từ đó hoàn toàn có thể đổi khác quốc tế. Nhưng nếu không có mối liên hệ với thực tiễn, nó sẽ chẳng có công dụng gì. Ba ý tưởng sáng tạo cơ bản này hoàn toàn có thể được triển khai tốt trong giờ giảng bằng cách ápdụng các phương pháp tích cực. Nhưng tôi nhường phần miêu tả các phương pháp đó chocác đồng nghiệp Nước Ta. Giờ đây họ thao tác này giỏi hơn tôi, vì họ đã đưa cácphương pháp đó hòa nhập vào đời sống Nước Ta và liên tục tăng trưởng chúng. Các bạncó thể tìm thấy những phương pháp đơn cử của từng phương pháp ấy trong cuốn Cấm nangPhương pháp Sư phạm này. – Ulrich LippChuyên gia huấn luyện sư phạmLỢI ÍCH CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰCKHẮC PHỤC NHỮNG TRỞ NGẠI KHI ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰCNHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG GIẢNG DẠYLẬP KẾ HOẠCH BÀI GIẢNGPHƯƠNG PHÁP “ TIA CHỚP ” PHƯƠNG PHÁP “ HỎI CHUYÊN GIA ” PHƯƠNG PHÁP “ HỎI – ĐÁP ” PHƯƠNG PHÁP “ NÊU Ý KIẾN GHI LÊN BẢNG ” PHƯƠNG PHÁP “ LÀM VIỆC NHÓM ” Created by AM WordCHMCẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠMChúng ta cùng dự hai giờ giảng : Giờ thứ nhất, giáo viên thuyểt trình say sưa. 20 phút tiên phong học viên rất chămchú, tay ghi chép liên tục. Lần lượt từng trang giấy được viết kín. 30 phút trôi qua, vàihọc sinh quay ngang, quay dọc, thư giấy được chuyển đi, lác đác chỗ này có tiếng nóichuyện riêng chỗ kia học viên ngáp ngủ hoặc lim dim gà gật, thậm chí còn có em đã gụcxuống bàn. Khoảng 1/3 lớp vẫn học rất nhiệt tình. Giờ học kết thúc. Trên bảng, trong vởdày đặc chữ của thầy. Giờ thứ hai, giáo viên đặt câu hỏi và học viên thao tác. Nhiều phương pháp giảngdạy khác nhau được sử dụng linh động. Cô giáo phỏng vấn nhanh, thuyết trình ngắn nộidung bài giảng, sau đó các nhóm thao tác, đóng vai, tranh luận. Lớp học giải lao bằngcác game show hữu dụng. Không khí buổi học rất sôi sục. Giáo viên cởi mở, vui tươi và không cầnphải thao thao bất tuyệt nhưng học viên vẫn tham gia nhiệt tình. Nhìn vào lớp chỉ thấy ” diễn viên chính ” là các học viên với nhiều hoạt động giải trí sôi sục, nhiều quan điểm khác nhau đượcđưa ra. Không ai có thời cơ để không cẩn thận hay ngủ gật. Tất cả đều cuốn theo sự dẫn dắt của côgiáo. Cuối giờ, kiến thức và kỹ năng được tổng hợp trên bảng, trong vở là thành quả của cả lóp. Những ý quan trọng được cô giáo nhấn mạnh vấn đề, bổ trợ. Nội dung bài học kinh nghiệm đã ” thấm ” vàomỗi học trò. Chúng ta thấy hai giờ học này có quen không ? Giờ thứ nhất, giáo viên chỉ sử dụngphương pháp thuyết trình. Giờ thứ hai, giáo viên sử dụng tích hợp các phương phápgiảng dạy tích cực và phương pháp thuyết trình. Sự độc lạ và hiệu suất cao của hai giờ học trên là gì ? Người học thích giờ nào hơn ? Làm thế nào để giáo viên có phương pháp tương thích, hiệu suất cao so với từng nội dung, từngđối tượng học khác nhau ? 1. Phương pháp giảng dạy tích cực là gì ? Phương pháp giảng dạy tích cực, hay phương pháp giáo dục dữ thế chủ động, phươngpháp sư phạm tân tiến … là những cách gọi để chỉ những phương pháp, phương pháp, kỹthuật khác nhau làm cho giờ học sinh động, mê hoặc, người học được thao tác, đượcsáng tạo Ví dụ : phương pháp thao tác nhóm, sắm vai, trường hợp Đây là một nhómcác phương pháp đơn cử phối hợp với phương pháp thuyết trình, giúp nâng cao chấtlượng dạy và học. LỢI ÍCH CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰCVậy người dạy và người học sẽ được gì khi vận dụng các phương pháp giảng dạytích cực ? 2. Lợi ích so với người dạyKhi vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, giờ giảng của mỗi giáo viên trởnên sinh động, mê hoặc và có ý nghĩa. Người học là TT nhưng vai trò, uy tín củangười thầy được đề cao hơn. Bên cạnh đó, năng lực trình độ của người thầy sẽtăng lên nhờ áp lực đè nén của phương pháp, bởi nội dung kỹ năng và kiến thức của từng giờ giảng phảiđược update liên tục để phân phối các câu hỏi của người học trong thời đại thông tinrộng mở. Dạy học là quy trình trao đổi kỹ năng và kiến thức giữa thầy và trò. Nếu thầy chỉ thuyết trình, có gì nói nấy thì những gì thầy giảng chỉ là kỹ năng và kiến thức một chiều. Có thể người học đã biếtnhững kiến thức và kỹ năng ấy, hay đó là những nội dung không hữu dụng so với đời sống hiện tạivà tương lai của họ. Người thầy phải luôn thay đổi bài giảng cũng như phong thái đứnglớp. Như vậy, người dạy sẽ học được từ học trò của mình rất nhiều kỹ năng và kiến thức và kinhnghiêm thực tiễn. Mối quan hệ thầy trò sẽ trở nên thân mật, tốt đẹp qua việc xử lý cáctình huống tương quan đến nội dung bài học kinh nghiệm và đời sống của người học. 3. Lợi ích so với người họcKhi giáo viên dạy học bằng phương pháp giảng dạy tích cực, người học thấy họđược học chứ không bị học. Người học được san sẻ những kỹ năng và kiến thức và kinh nghiệmcủa mình đồng thời với việc bổ trợ những kỹ năng và kiến thức, kinh nghiệm tay nghề không chỉ từ ngườithầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. Họ niềm hạnh phúc khi được học, được phát minh sáng tạo, được bộc lộ, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà họ ghi nhớ sâu kiến thức và kỹ năng vàtăng năng lực vận dụng vào thực tiễn lên gấp 3-4 lần so với cách học thụ động một chiều. Dạy bằng phương pháp giảng dạy tích cực chính là tìm mọi cách giúp người họcđược dữ thế chủ động trong việc học, cho họ được thao tác, được tò mò tiềm năng củachính mình. Người dạy cần giúp người học có được sự tự tin, có nghĩa vụ và trách nhiệm với bảnthân để từ đó san sẻ nghĩa vụ và trách nhiệm với hội đồng. Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh thương mại nổi tiếng người Anh, đã nói : ” Để làm chotương lai trở thành hiện thực, tất cả chúng ta cần phải tự tin và tin cậy vào giá trị của chínhmình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người “. Và muốn người học cóđược sự tự tin và tin cậy vào giá trị của chính mình, họ cần được học theo phươngpháp dữ thế chủ động. Chỉ khi người học được tự mày mò kỹ năng và kiến thức, tự học, tự làm và tự bổ trợ chonhau thì kỹ năng và kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành vi, thànhthói quen hàng ngày của họ. 4. Mối quan hệ thầy trò trong việc dạy và họcVới cách dạy đọc – chép, giáo viên là người rót kỹ năng và kiến thức vào đầu học viên vàngười dạy giữ vai trò TT. Nhưng kiến thức và kỹ năng từ thầy hoàn toàn có thể trở thành kỹ năng và kiến thức củatrò không ? Chắc chắn là không nhiều. Theo nhiều điều tra và nghiên cứu khoa học về giáo dục thìcách dạy đọc – chép chỉ giúp người học tiếp thu được 10 – 20 % kiến thức và kỹ năng. Khi vận dụng phương pháp giáo dục dữ thế chủ động, người học giữ vai trò TT, người thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn, trợ giúp. Người học dữ thế chủ động tìm kiếm tri thức vàcó thể thu nhận kỹ năng và kiến thức không riêng gì từ thầy mà còn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Như vậy, vai trò của người thảy có giảm đi không ? Xin khẳng định chắc chắn ngay là không. Ngược lại, vai trò người thầy càng trở nên quan trọng. Giữa biển thông tin bát ngát, điều gì cần gạn lọc, cách sử dụng thế nào và ứng dụng chúng vào đời sống như thếnào Tất cả những điều ấy đều cần đến sự hướng dẫn của người thầy. Sự biến hóa này yên cầu tất cả chúng ta phải dạy và học như thế nào ? Với người học, các bạn cần hiểu rõ mình là ai và mình muốn là người như thế nào, điều gì mình cần học và mình muốn học cái gì. Với người dạy, mỗi thầy / cô càng phải phấn đấu, tu dưỡng nhiều hơn, tự học, tựsáng tạo nhiều hơn để xứng danh trong vai trò mới. “ Phương pháp chỉ là công cụ để giúp đạt được tiềm năng học tập. ” – Ulrich LippCreated by AM WordCHMCẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM1. Khắc phục những lo lắng của người dạy và người học khi vận dụng các phươngpháp giảng dạy tích cực1. 1. Những quan ngại của người dạya. E ngại lớp đông, không vận dụng đượcĐây là lo lắng do hiểu sai về các phương pháp giảng dạy tích cực. Thực tế là có rấtnhiều phương pháp giảng dạy tích cực tương thích với các mô hình lớp học khác nhau. Chẳng hạn, lớp đông hoàn toàn có thể vận dụng phương pháp hỏi – đáp, nêu quan điểm – ghi bảng, hỏichuyên gia, đóng vai, trực quan hóa, phương pháp trường hợp, phương pháp tia chớp, phương pháp sàng lọc Thậm chí, ngay phương pháp nhóm cũng đã có nhiều giảngviên vận dụng thành công xuất sắc với lớp trên 100 học viên. Điều này chứng tỏ sự thành côngkhông phụ thuộc vào vào phương pháp mà là vào bản lĩnh và kỹ năng và kiến thức quản trị lớp của ngườithầy. b. E ngại người học lười phát biểu, thụ động : Nếu tiếp xúc tốt và biết cách khuyến khích, người thầy sẽ khiến phần đông cả lớptham gia góp phần quan điểm trong giờ học. Việc người học ngại phát biểu chính là do ngườidạy chưa tìm được cách khơi lên ngọn lửa học tập ở học viên của mình. ” Người học lànhững bộ đuốc cần đốt cháy chứ không phải cái cốc để rót đầy “. c. Ngại tốn thời hạn, tiền tài khi vận dụng : Các phương pháp giảng dạy tích cực không hề tốn thời hạn hay tài lộc như nhiềungười vẫn nghĩ. Có những phương pháp chỉ cần 5-10 phút để tạo sự sôi sục trong lớp, giúp người học thu nhận kỹ năng và kiến thức một cách thuận tiện như : phương pháp tia chớp, phương pháp hỏi – đáp hay nêu quan điểm Tiền bạc hay trang thiết bị văn minh không phải làvấn đề cốt yếu của các phương pháp giảng dạy tích cực. Ngoài bảng có sẵn, hầu hếtcác phương pháp đều không yên cầu trang bị thêm bất kể phương tiện đi lại nào. d. Sợ bị “ cháy giáo án ” : Chỉ những người dạy một cách máy móc theo sách vở mới sợ ” cháy giáo án “. Người thầy giỏi cần biết tinh lọc nội dung để phong cách thiết kế buổi giảng sao cho hiệu suất cao nhất. 1.2. Những lo lắng của người họca. Ngại thao tác, chỉ thích ghi : KHẮC PHỤC NHỮNG TRỞ NGẠI KHI ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNGDẠY TÍCH CỰCĐiều này xuất phát từ thói quen học theo kiểu truyền thống cuội nguồn. Nhưng khó khăn vất vả này sẽđược hóa giải nếu người học thấy được ích lợi từ việc học theo phương pháp dữ thế chủ động. Kinh nghiệm của tôi là chỉ sau một giờ đầu được học theo phương pháp tích cực, ngườihọc sẽ có hứng thú và hưởng ứng ngay cách học này. b. Ngại tự học trước khi đến lớp : Ban đầu, ít có người học nào tự giác sẵn sàng chuẩn bị bài học kinh nghiệm trước khi đến lớp. Để khắcphục điều này, giáo viên hoàn toàn có thể hướng dẫn cho họ học ở nhà bằng cách đặt câu hỏi ngắngọn, mê hoặc về những gì mà họ cần sẵn sàng chuẩn bị. Và giáo viên cũng cần tìm hình thức phùhợp nhằm mục đích khen thưởng, động viên những người đã triển khai tốt, ví dụ đặt câu hỏi đểkiểm ưa việc đọc sách ở nhà và cộng điểm thưởng cho những bạn vấn đáp tốt. c. Tự ti, chua mạnh dạn phát biểu : Giáo viên hoàn toàn có thể khắc phục khó khăn vất vả này bằng cách khuyến khích, động viên haykhen ngợi người học, nhằm mục đích tạo ý thức thao tác sôi sục trong cả lớp. Thậm chí, cách chỉđịnh trực tiếp cũng rất hiệu suất cao để tạo thời cơ cho người học, bởi nhiều người tuy khôngdám giơ tay nhưng rất muốn được phát biểu trước lớp. d. Sợ thầy vận dụng phương pháp mới nhưng vẫn thi theo kiểu học thuộcNhà trường cần vận dụng việc ra đề thi mở, khuyến khích tư duy phát minh sáng tạo và phảnbiện của người học. Đề thi nên mang tính ứng dụng cao để người học được phát minh sáng tạo, phát huy cao nhất năng lực và tạo dấu ấn riêng. Khi vận dụng phương pháp dữ thế chủ động, tôiluôn ra đề mở, và dù nhà trường có ra đề đóng ( bốc thăm từ ngân hàng nhà nước đề thi ) thì tôicũng hướng dẫn các học viên làm theo hướng mở, liên hệ trong thực tiễn nhiều. e. Sợ kỹ năng và kiến thức không được tổng hợp rõ ràng khi giảng viên vận dụng phương phápmới : Điều này xảy ra là do 1 số ít giáo viên vận dụng chưa đúng phương pháp giảng dạy củacác phương pháp giảng dạy tích cực, khiến người học không chốt lại được những kiếnthức thiết yếu. Ví dụ, với phương pháp thao tác nhóm, có 1 số ít giáo viên cho ngườihọc thao tác, phát biểu, nhưng sau đó không tổng kết lại nên người học không biết cuốicùng thì điều gì là đúng. Với phương pháp dữ thế chủ động, người thầy thường giảm việc nóixuống dưới một nửa so với cách cũ nhưng phải bảo vệ phần quan trọng nhất là việctổng kết, bổ trợ, khuynh hướng kiến thức và kỹ năng. 2. Những nhu yếu cần thực thi để có gỉờ giảng thành công xuất sắc : 2.1. Tìm híéu kỹ vé người họaNgười dạy cần khám phá một số ít thông tin cơ bản về người học, như thành phầnchính, độ tuổi, tỷ suất nam / nữ, trình độ học vấn Đặc biệt là cần biết rõ nhu yếu, mong đợicủa họ so với môn học và với người dạy để phong cách thiết kế nội dung bài giảng cũng như chọnphương pháp phù họp nhất. 2.2. Chuẩn bị bài giảng : Giáo viên chỉ chọn tối đa 5 thông điệp ý nghĩa nhất và cắt bớt những nội dungkhông tương thích. Để học viên ghi nhớ thuận tiện, tốt nhất giáo viên nên tổ chức triển khai bài giảngtuân theo quy tắc số 3. Chia bài giảng thành 3 phần, mỗi phần 3 ý, Thay đổi linh động cách biểu lộ nội dung bằng các phương pháp giảng dạy chủđộng khác nhau. Chuẩn bị tư liệu minh họa sinh động để trực quan hóa bài giảng. 2.3. Giao tiếp với người họcNgười dạy cần tôn trọng, và hơn hết là nên làm bạn với người học. Thái độ thânthiện, cởi mở, biết lắng nghe của thầy cô luôn được người học trân trọng. Sự khen ngợi, khuyến khích đúng lúc, đúng chỗ của thầy sẽ giúp trò có thời cơ tăng trưởng những tiềmnăng. 2.4. Rút kinh nghiệm tay nghề sau từng giờ giảng : Cảm nhận của người học so với tiết học là rất quan trọng. Chỉ họ mới hoàn toàn có thể chobiết họ đã thu hoạch được gì qua từng giờ giảng, và người dạy cần biến hóa như thế nàođể tốt hơn. về yếu tố này, chúng tôi xin trích lại quan điểm cá thể đã san sẻ trên Báo TuổiTrẻ ngày 27/2/2009 : Bài học từ những lời góp ý của học tròTT – Đọc bài ” Người thầy không tuyệt đối ” ( Tuổi Trẻ ngày 26-2 – 2009 ) tôi nhưđược sống lại với bao kỷ niệm của những ngày đầu đứng trên bục giảng làm cô giáo. Ngày ấy, một sinh viên năm nhất đã góp ý với tôi rằng : “ Cô ơi, cô nói hơi to, trongkhi loa lại ở gần khiến em nhức hễt cả tai rồi ”. Từ góp ý này, tôi luôn ý thức điều chỉnhâm lượng vừa phải cho dễ nghe và luôn hỏi Sinh viên rằng như vậy có nghe rõ không, cóto quá không. Rồi một học trò khác lại thủ thỉ với tôi : “ Cô ơi, cô nên trang điểm mộtchút khi lên lớp, như vậy trông cô sẽ xinh hơn và chúng em có thêm cảm hứng để học ”. Đó là những lời góp ý tiên phong học trò dành cho tôi. Lời góp ý đơn giản và giản dị nhưng lại có ýnghĩa rất lớn với tôi trong việc ý thức giữ gìn hình ảnh trước học trò, cả về hình thức lẫntư cách. Mới đây, lời góp ý của học trò đã khiến tôi tâm lý rất nhiều : “ Em thấy cô giảngbài rất tình cảm, thân thiện, nhưng khi gặp cô ngoài giờ học em cứ thấy xa cách sao ấy, córất nhiều điều em muốn san sẻ với cô mà chưa dám ”. Từ góp ý này, tôi đã nghiêm túcnhìn lại mình và nhận ra rằng đôi lúc tôi đã vô tình trở thành người hờ hững và khó gần. Và còn rất nhiều nhận xét chân tình khác mà tôi nhận được từ học trò trong suốttám năm đứng lớp. Dù học trò của tôi là các em sinh viên hay các anh chị học viên lớntuổi, họ đều có một điểm chung là rất chân tình trong việc giúp cô giáo dạy tốt hơn. Nếu ai đó hỏi làm cách nào để dạy tốt, tôi sẽ nói kinh nghiệm tay nghề quan ttọng nhất màtôi có được là chân thành tiếp thu quan điểm nhận xét của học trò. Với bất kỳ lớp nào, khidạy được 50% chương trình hoặc vào buổi kết thúc môn học, tôi đều xin nhận xétcủa cả lớp để triển khai xong hơn nữa bài giảng và cách dạy của mình. Tôi ý kiến đề nghị cả lớpkhông tên vào phiếu để nhận xét được khách quan. Và chính cách làm này đã cho tôinhiều bài học kinh nghiệm quý để hoàn thành xong mình khi đứng lớp ( từ nội dung bài giảng cho đến phongcách, ứng xử của giảng viên ). PHẠM THỊ THÚYCreated by AM WordCHMCẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM1. Nguyên tắc 1 : Liên hệ đến thực tiễn ” Giờ giảng tốt thường được bất đầu từ thực tiễn và kết thúc bằng thực tiễn. ” – Ulrich LippNhững gì được dạy trên lớp phải gắn với đời sống bên ngoài, ở quá khứ, hiện tạivà tương lai của người học. Với cụ già, nếu nội dung học không tương quan đếncông việc đang làm, họ sẽ không muốn học. Họ chỉ hoàn toàn có thể hiểu kim chỉ nan qua ví dụ thựctế. Vậy Anh / Chị đã liên hệ thực tiễn như thế nào trong bài giảng ? Đưa ra ví dụ tương quan đến việc làm hàng ngày của người học là một cách mở bàitốt. Ví dụ này khiến người nghe tò mò và nhận ra rằng giờ học sẽ đề cập đến công việccủa họ, thân mật và có ích với họ. Khi người học thấy rõ quyền lợi của việc học, họ sẽ tiếpthu bài tốt hơn, học tập trung hơn. Sau khởi đầu thuận tiện, người dạy hoàn toàn có thể đưa ra phầnlý thuyết như định nghĩa, lý giải, quy tắc Đến cuối bài, người dạy cần phải thiết lậplại mối liên hệ giữa bài học kinh nghiệm với thực tiễn của người học. Bài học được khởi đầu bằng thực tiễn và kết thúc cũng bằng thực tiễn, như vậy mớiđảm bảo được việc học song song với hành. Một giờ giảng tốt, có hiệu suất cao cần gợi mở và lôi cuốn người học bằng những câu hỏiliên quan đến thực tiễn việc làm của họ, cung ứng cho họ kỹ năng và kiến thức mới về kim chỉ nan vàkết thúc bằng các nhu yếu rất thực tiễn. Để có thời hạn liên hệ trong thực tiễn, nội dung bài giảng nên được cắt giảm và chỉ tậptrung vào những nội dung thực sự thiết yếu. Thực tế cho thấy, giờ học ở Nước Ta hiệnnay phải truyền đạt quá nhiều nội dung, vì thế mà mỗi giáo viên cần phải linh động trongviệc tinh lọc điều gì là có ích nhất cho người học. 2. Nguyên tắc 2 : Tạo không khí tích cực trong giờ giảngViệc học không phải khi nào cũng là việc làm khó khăn vất vả. Học và chơi không đối nghịchnhau, mà ngược lại. Khi người học tìm thấy niềm vui trong học tập thì việc học cũng trởnên thuận tiện hơn. Trách nhiệm của người dạy là hãy giúp người học cảm nhận được họclà niềm vui. Những cách khác nhau để tạo nên không khí tích cực, vui tươi trong giờ học : NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG GIẢNG DẠY – Trò chơi khởi động tạo sự hào hứng ( xin vui mừng xem Phần Trò chơi sư phạm ) ; – Tôn trọng và chăm sóc đến người học ; – Mang đến nhiều nụ cười hơn ; – Cử chỉ thân thiện, đặc biệt quan trọng là ánh mắt ; – Linh hoạt biến hóa phương pháp giảng để tạo sự sinh động ; 3. Nguyên tắc 3 : Trực quan hóa – Trình bày nội dung bằng hình ảnhNếu chỉ giảng bằng cách thuyết trình, lượng kỹ năng và kiến thức bị thất thoắt sẽ là bao nhiêuphần trăm ? Các điều tra và nghiên cứu đã chỉ ra số lượng ấy là 80 %. Con người không chỉ học bằng cách nghe, mà còn học được nhiều bằng cách quansát. Vì thế, toàn bộ những nội dung quan trọng cần phải được trực quan hóa, và trong suốttiết học phải làm cho người học hoàn toàn có thể nhìn thấy càng lâu càng tốt. Trực quan hóa được thực thi trải qua các phương tiện đi lại giảng dạy, như : bảng, bảng ghim, bảng lật, trình chiếu bằng máy, dụng cụ trực quan, tranh, ảnh, hình vẽ Mỗikhi giảng xong một nội dung nào đó, người dạy nên dán, treo quanh lớp học để kiến thứcluôn hiển thị trước mắt người học. 4. Nguyên tắc 4 : Khuyến khích người học tự làmKhông ai hoàn toàn có thể học được trong một thời hạn dài nếu chỉ ngồi một chỗ và tiếp thuvới ý thức thụ động. Khuyến khích người học có nghĩa là làm cho họ hoạt động, chủđộng, tích cực. Khi được khuyến khích, người nghe sẽ trở nên dữ thế chủ động và học hỏi vớitinh thần sảng khoái, sôi động. Nếu không, khó ai hoàn toàn có thể tập trung chuyên sâu nghe giảng suôngđược quá 20 phút. Giáo viên hoàn toàn có thể tổ chức triển khai học dữ thế chủ động bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ điển hình : – Tạo thời cơ cho người học góp phần quan điểm, thao tác nhóm, tham gia hỏi – đáp – Làm bài tập ; – Thực hành ; – Người học truyền đạt lại nội dung vừa học cho người khác, ( xin vui mắt xem thêmbài Các phương pháp hỗ trợ khác : Phương pháp Học bằng dạy học ) ; 5. Nguyên tắc 5 : Chốt lại nội dung giờ giảngChốt lại nội dung hay neo kỹ năng và kiến thức là một việc quan trọng trong quy trình giảng dạyđể người học nhớ lâu những kiến thức và kỹ năng đã học. Thiếu điều này cũng giống như con thuyềnbị thiếu mất mỏ neo ! Việc chốt lại nội dung hoàn toàn có thể được thực thi bằng nhiều cách : – Dành thời hạn cho người học ghi chép ý chính. Ví dụ : viết thư cho chính mình, ( xin vui vẻ xem bài Các phương pháp hỗ trợ khác ) ; – Nhắc lại và nhấn mạnh vấn đề những nội dung quan trọng ; – Đặt câu hỏi kiểm tra bài cũ ; – Làm bài tập ; – Thực hành ; – Liên hệ trong thực tiễn ; – Yêu cầu người học giảng lại ; – Trưng bày nội dung cơ bản trong suốt thời hạn học ; – Trò chơi đố vui : ví dụ đoán ô chữ như trò Chiếc nón kỳ diệu ; – Cuộc thi neo kỹ năng và kiến thức bằng câu đố, ( xin vui mắt xem Phương pháp Neo kiến thứcbằng câu đố ) ; Các tiêu chuẩn để người dạy có thểtự nhìn nhận một giờ giảng tốt : 1. Các phương pháp và phương tiện đi lại có được tôi sử dụng linh động ? 2. Tôi có khuyến khích người học tham gia tích cục, và tôi có bao quát được toànbộ lớp học ? 3. Tôi có độc thoại liên tục hơn 20 phút ? 4. Tôi có trực quan hóa các nội dung chính của bài học kinh nghiệm ? 5. Nội dung và thời hạn của bài giảng có được kiểm soát và điều chỉnh để duy trì sự chú ý quan tâm củangười học ? 6. Tôi có “ neo ” lại kiến thức và kỹ năng cho người học ? Created by AM WordCHMCẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠMCác giáo viên Nước Ta thường nói : ” Tôi soạn giáo án “, hay Đây là giáo án của tôi “. Họ ít khi sử dụng thuật ngữ ” kế hoạch bài giảng “. Chúng tôi cho rằng cả hai cách gọi đềuhay, đều hài hòa và hợp lý. Nhưng điều quan trọng là việc chuẩn bị sẵn sàng ấy phải bảo vệ khi lên lớpchúng ta trọn vẹn tự tin, làm chủ giờ giảng của mình và người học cảm thấy hứng thú, mê hồn học tập. Một kế hoạch bài giảng gồm có các nội dung : – Chủ đề – Đối tượng – Số lượng – Thời gian – Mục tiêu – Tài liệu tìm hiểu thêm – Kế hoạch chi tiếtMột số gợi ý : 1. Chủ đề : Chủ đề hay tên bài giảng phải được ghi to, rõ ràng ngay trang tiên phong của kếhoạch bài giảng. Ví dụ : ” Văn hóa mặc của người Việt ”, hay “ Hình ảnh người phụ nữ trongthơ Nguyễn Bính “. 2. Đối tượng : Vì sao phải xác lập đối tượng người dùng học ? Giáo viên phải khám phá đối tượng người dùng mà tất cả chúng ta sẵn sàng chuẩn bị giảng dạy xem họ là ai. Họlà sinh viên hệ chính quy, học viên cấp 3, hay những người đã đi làm ? Họ là cán bộĐoàn người trẻ tuổi hay cán bộ của Hội Phụ nữ ? Độ tuổi của những người theo học ? Việctìm hiểu này rất quan trọng, bởi một kế hoạch bài giảng không hề dùng chung cho mọiđối tượng. Cùng là một nội dung, nhưng khi đối tượng người dùng khác nhau thì kế hoạch bài giảngcũng phải khác nhau, từ việc phân chia thời hạn trong bài giảng, khối lượng kỹ năng và kiến thức, phương pháp và phương tiện đi lại giảng dạy, cho đến phương pháp thực thi kiểm tra, thi, v.v. Hoạt động : LẬP KẾ HOẠCH BÀI GIẢNGTìm hiểu về người học trong một lớp huấn luyện và đào tạo phương pháp sư phạmUlrich Lipp. Câu hỏi 1 : Anh / chị làm giáo viên được bao nhiêu năm rồi ? Người học sẽ đứng theo 1 đường thẳng trên lớp theo trật tự từ nhiêu năm đến ítnăm. = > Lipp : Các anh chị hoàn toàn có thể học hỏi lẫn nhau, người trẻ học từ người nhiều kinhnghiệm, và người trẻ hoàn toàn có thể động viên người đã đứng lớp lâu năm quả cảm tiếp nhậncái mới. Câu hỏi 2 : Giảng dạy chiếm tỷ suất bao nhiêu Xác Suất trong tổng số việc làm ởtrường của anh / chị ? Câu hỏi 3 : Tỷ lệ Phần Trăm thuyết trình trong giảng dạy của anh / chị ? Mỗi khi đặt câu hỏi xong, người hỏi sẽ nhu yếu mọi người đứng vào đường thẳngtheo số năm, số Tỷ Lệ và hoàn toàn có thể hỏi kỹ hơn so với 1 số ít người. Ví dụ : ngoàithuyết trình, anh / chị còn dùng những phương pháp nào ? = > Lípp : – Hôm nay tất cả chúng ta khám phá nhiều vẻ nhau để làm gì ? – Nguyên nhân sâu xa của việc ấy ? Chia 2 người vào 1 nhóm, mỗi nhóm tìm 1 nguyên do. – Kết quả tranh luận : Xác định đối tượng người tiêu dùng người học để đưa ra phương pháp tương thích. Xác định nội dung chính cần học. Việc làm quen là một phần của nội dung chương trình đào tạo và giảng dạy. Làm quen để tạo ra phương pháp mê hoặc một cách hài hòa và hợp lý nhằm mục đích phát huy hiệu quảcủa chương trình giảng dạy văn minh. Thấu hiểu nguyên vọng của người học để đưa ra phương pháp hài hòa và hợp lý nhất. Nâng cao chất lượng đào tạo và giảng dạy. Trích Nhật ký đợt học thứ 1 ( Modul 1 ) lớp MT4 9 giờ 30 ngày 24/8/20093. Số lượng : Chúng ta cần chăm sóc đến tổng số người học trong lớp để nhằm mục đích lựa chọn phươngpháp, phương tiện đi lại giảng dạy cho tương thích. Ví dụ : Lớp đông người ( từ 81 người trở lên ), khi vận dụng phương pháp thao tác nhóm thì không hề chia nhóm bằng cách yêu cầungười học chuyển dời thành nhiều nhóm ở nhiều vị trí khác nhau trong lớp, bởi như vậy sẽrất lộn xộn, mất trật tự và khó quản trị. Trong trường hợp này, cách tốt nhất là để ngườihọc ngồi tại chỗ và chia nhóm theo dãy bàn. Nhưng với lớp ít người thì việc chia nhómtheo cách linh hoạt lại rất hiệu suất cao và tạo hứng thú cho người học. Người dạy hoàn toàn có thể chianhóm theo cách đếm số hoặc sở trường thích nghi về sắc tố, loài hoa, rồi chuyển dời về địa điểmđã được xác lập. Với phương tiện đi lại giảng dạy cũng vậy, nếu lớp đông người thì bảngviết, tranh vẽ, hình vẽ và các giáo cụ trực quan khác phải đủ lớn để cả lớp hoàn toàn có thể quansát và theo dõi được. Ngoài ra, tất cả chúng ta cũng cần chăm sóc đến số lượng nam, nữ, trình độ học vấn, khảnăng nhận thức của người học để biết cách khuyến khích, động viên so với từng đốitượng nhằm mục đích giúp họ hoàn toàn có thể phát huy tốt nhất năng lượng của bản thân. 4. Thời gian : Điều người dạy luôn quan ngại là hết giờ mà nội dung vẫn còn dang dở ( ” cháy giáoán ” ) hoặc giảng xong rồi mà thời hạn vẫn còn nhiều ( ” ướt giáo án ” ). Giảng vừa khớp thờigian – không thừa cũng không thiếu – là một trong những tiêu chuẩn của người dạy giỏi. Các giáo viên khi soạn giáo án hay lập kế hoạch bài giảng cân phải phân chia thời gianmột cách hài hòa và hợp lý cho từng nội dung, vì thực thi tốt việc này mới hoàn toàn có thể bảo vệ đúngtiến độ chương trình đề ra. 5. Mục tiêu : Mục tiêu là cơ sở cho việc lập kế hoạch bài giảng. Đó là việc diễn đạt sự biến hóa củamỗi người học sau một quy trình giảng dạy của người thầy. Hay nói cách khác, mục tiêulà cái đích mà cả người dạy và ngưòi học phải đạt được sau một quy trình dạy và học. Việc làm rõ tiềm năng sẽ giúp nâng cao được chất lượng giảng dạy, và khi đó mớicó cơ sở để nhìn nhận hiệu suất cao của việc dạy và học. Một bài giảng cần đạt được những tiềm năng sau đây : Về kiến thức và kỹ năng : Người học tiếp thu được gì ? Họ biết và hiểu được những gì ? Về kỹ năng và kiến thức : Người học hoàn toàn có thể làm được gì ? Họ có thực hành thực tế được không ? Có thểvận dụng kỹ năng và kiến thức vào thực tiễn như thế nào ? Về niềm tin, thái độ : Thái độ của người học so với bài giảng như thế nào ? Họ cómong muốn gì sau khi học xong bài ? Ví dụ : Học xong bài Kỹ năng tiếp xúc nơi văn phòng, người học : – Về kỹ năng và kiến thức : Người học hiểu được đặc trưng của tiếp xúc nơi văn phòng, nhu yếu, nguyên tắc tiếp xúc nơi văn phòng. – Về kỹ năng và kiến thức : Người học được thực hành thực tế kỹ năng và kiến thức lắng nghe, kỹ năng và kiến thức nói, kỹ năngkhen / góp ý. – Về thái độ : Người học coi trọng việc nâng cao kiến thức và kỹ năng tiếp xúc nơi văn phòng, vàcó ý thức rèn luyện kỹ năng và kiến thức này. 6. Tài liệu tìm hiểu thêm : Trách nhiệm của người dạy là phải cung ứng cho người học những tài liệu cần thiếtcó tương quan đến bài giảng và môn học nhàm giúp họ thuận tiện trong việc điều tra và nghiên cứu vàhọc tập. Có thể có hai loại tài liệu : tài liệu bắt buộc ( giáo trình ) và tài liệu tìm hiểu thêm. Người dạy hoàn toàn có thể cung ứng trực tiếp đến người học tài liệu hoặc ra mắt tên tácgiả, tác phẩm, nhà xuất bản và địa chỉ hoàn toàn có thể tìm kiếm. 7. Kế hoạch chỉ tiếtĐây là những gợi ý cho một kế hoạch bài giảng thực thi trong 45 phút, các giáoviên hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm và vận dụng linh động, tương thích với bài giảng trình độ củamình. THỜIGIANNỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP PHƯƠNG TIỆN5 ‘ Mở đâu bài giảng-Tự trình làng – Làm quen – Dẫn dắt vào bài giảngPP Tia chớp – Câu hỏi ? Bảng7 ‘ Nội dung 1 : – … … … – … … … … PP Hỏi-Đáp – Câu hỏi ? Bảng, phấn – … … … … 8 ‘ Nội dung 2 : – … … … – … … … … – … … … … PP Nêu ý kiếnghi lên bảng – Câu hỏi ? Bảng, phấn20 ‘ Nội dung 3 : – … … … – … … … … – … … … … PP Làm việcnhómBảng, phấn, giấykhổ AO, bút dạnhiều màu, băngkeo5 ‘ Kết thúc : Chốt kiến thứcThuyết trình + Hỏi – Đáp – Câu hỏi ? Bảng, phấnVí dụ : KẾ HOẠCH GIỜ GIẢNG1. Chủ đề : Những tác nhân tác động ảnh hưởng đến quy trình xã hội hóa. 2. Đối tượng : Sinh viên. 3. Số lượng : 100 người, độ tuổi trung bình 21, chưa có kinh nghiệm tay nghề thao tác. 4. Thời gian : 45 phút. 5. Mục tiêu giờ giảng : – Kiến thức : Sinh viên hiểu được quy trình xã hội hóa là gì và các tác nhân chủ yếuảnh hưởng đến quy trình xả hội hóa. – Kỹ năng : Phân tích được những tác nhân tác động ảnh hưởng đến quy trình xã hội hóa củabản thân. – Thái độ : Rút ra bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề cho quy trình xã hội hóa của bản thân mỗisinh viên. 6. Tài liệu tìm hiểu thêm : Giáo trình Xã hội học đại cương, tác giả Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng. 7. Kế hoạch cụ thể : THỜIGIANNỘI DUNG PHƯƠNGPHÁPPHƯƠNGTIỆN5 ‘ Kể chuyện về một trẻ nhỏ hư, hỏi sinhviên tìm nguyên do tại sao trẻ hư : do mái ấm gia đình, bè bạn hay do bản thânem – Phươngpháp : Mởđầu bàigiảngBảng2 ’ – Ôn lại bài cũ bằng cách đặt câu hỏi : Khái niệm xã hội hóa là gì ? – Kết nối : Nhắc lại khái niệm xã hộihóa. Tiết này tất cả chúng ta sẽ tìm hiểunhững tác nhân ảnh hưởng tác động đến quátrình xã hội hóa. Trước hết chúng tatìm hiểu quy trình xã hội hóa là gì ? 5 ‘ – Giảng cho sinh viên hiểu về quá trìnhxã hội hóa. – Chiéu định nghĩa quy trình xã hội hóacho sinh viên ghi nhớ. ThuyếttrìnhMáy chiếu15 ‘ – Đặt câu hỏi : Theo anh / chị thì quátrình xã hội hóa của mỗi người chịuảnh hưởng của những tác nhân nào ? Ghi câu hỏi lên bảng. – Mời 2 sinh viên lên ghi ý kiến củacác bạn. – Khuyến khích sinh viên phát biểu ýkiến. – Ghi tổng thể các quan điểm lên bảng. – Giáo viên Tóm lại các quan điểm quantrọng. – Phươngpháp Nêu ýkiến ghi lênbảngBảng, Máy chiếuTổng kết : Nhân tố khách quan và chủquan : – Nhân tố khách quan là môi trườngkinh tế – văn hóa truyền thống – xã hội, mái ấm gia đình, – Phương12 ‘ nhà trường, bè bạn. – Nhân tố chủ quan là bản thân mỏingười, đơn cử là sự hiểu biết, kinhnghiệm sống, kỹ năng và kiến thức tiếp xúc, lòngham học hỏiphápThuyếttrình6 ‘ Nêu kỹ năng và kiến thức, gọi 2 sinh viên : – Nhắc lại quy trình xã hội hóa là gì vàcác tác nhân đa phần tác động ảnh hưởng đếnquá trình xã hội hóa. – Chiếu nội dung tiết giảng cho sinhviên nhìn lại để nêu kiến thức và kỹ năng trongđầu họ. – Đề nghị sinh viên liên hệ, rút kinhnghiệm cho bản thân : Làm thế nào đểquá trình xã hội hóa của mình đạt kếtquả tối ưu ? – Phươngpháp Hỏi – ĐápMáy chiếuCreated by AM WordCHMCẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠMPhương pháp Tia chớp, hay còn gọi là phương pháp Phỏng vấn nhanh, là mộtphương pháp giúp mở đầu bài giảng, hay nhằm mục đích tích lũy thông tin nhanh từ phía ngườihọc rất hiệu suất cao. Các bước triển khai phương pháp Tia chớp : 1. Sắp xếp lớp theo hình thức tương thích ; 2. Giáo viên đặt câu hỏi ; 3. Người học vấn đáp ; 4. Tổng kết nhanh và khuynh hướng vào bài học kinh nghiệm. Cách thức thực thi : 1. Sắp xếp lớp theo hình thức tương thích : Nếu dưới 30 người học, nên sắp xếp cả lớp đứng theo hình tròn trụ. Nếu lớp đông người học, cần chuẩn bị sẵn sàng micro không dây để hoàn toàn có thể phỏng vấn đượcnhanh và nhiều người. 2. Giáo viên đặt câu hỏi : Câu hỏi phải mê hoặc, ngắn gọn, gây được sự quan tâm. Giáo viên hỏi nhanh từng người. Dùng micro hay một dụng cụ giả làm micro đưa vào trước từng người khi hỏi nhưphóng viên phỏng vấn. 3. Người học trả lòi : Yêu cầu người học vấn đáp nhanh và ngắn gọn. Nếu người được hỏi mà chưa có câu vấn đáp, hãy bỏ lỡ và chuyển ngay sang hỏingười khác. Nên hỏi khoảng chừng 15-20 người trong mỗi lần vận dụng phương pháp này. 4. Tổng kết nhanh và khuynh hướng vào bài học kinh nghiệm : Đưa ra tổng kết một cách ngắn gọn. Kết nối thông tin đó vào bài học kinh nghiệm. PHƯƠNG PHÁP “ TIA CHỚP ” Những chú ý quan tâm khi vận dụng phương pháp tia chớp : Không bàn luận, phản hồi hay lý giải câu vấn đáp. Cần thực thi nhanh mọi thao tác. Ví dụ, gọi đích danh người học phát biểu thì thờigian có câu vấn đáp sẽ nhanh hơn. Phương pháp này hoàn toàn có thể vận dụng ở mọi mô hình lớp học và mọi thời gian trong bàigiảng. Created by AM WordCHMCẨM NANG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠMKhi cần lan rộng ra hiểu biết và nâng cao nhận thức cho người học về một yếu tố haymột nội dung trong chương trình giảng dạy của mình, các giáo viên nên sử dụng phươngpháp Hỏi chuyên viên. Để phương pháp này phát huy hiệu quả, người học phải là ngườiđã chớp lấy được một cách cơ bản những tri thức đó. Theo kinh nghiệm tay nghề của chúng tôi, người học thường ít khi dữ thế chủ động đặt câu hỏi hay nêu những vướng mắc của họ sau mỗiphần học. Nhưng nếu giáo viên vận dụng phương pháp này, điểm yếu ấy sẽ được khắcphục một cách thuận tiện và qua đó ta sẽ hiểu họ cần bổ trợ những gì. Đây là phươngpháp có sức thuyết phục cao do người học sẽ được giải đáp yếu tố một cách thỏa đángcả về lý luận lẫn thực tiễn bởi các chuyên viên trong nghành nghề dịch vụ mà họ chăm sóc. Các bước triển khai phương pháp Hỏi chuyên viên : 1. Nêu chủ đề2. Giới thiệu chuyên viên ( nếu cần ) 3. Đề nghị người học đặt câu hỏi4. Thu thập câu hỏi5. Trả lời các câu hỏi6. Giáo viên tổng kếtCách thức triển khai : 1. Nêu chủ đề : Nêu rõ mục tiêu của cuộc trao đổi. Làm rõ nội dung cần trao đổi. Định hướng để người học thấy thiết yếu và muốn hỏi về chủ đề nêu ra. 2. Giới thiệu chuyên viên ( nếu cần ) : Chuyên gia hoàn toàn có thể là : giáo viên, khách mời bên ngoài hoặc cũng hoàn toàn có thể là chínhngười trong lớp có kỹ năng và kiến thức nâng cao về đề tài đã nêu ra. Nếu giáo viên đồng thời là chuyên viên thì không cần trình làng. Nếu chuyên viên là khách mời ngoài thì cần phải ra mắt vừa đủ, ngắn gọn vềchuyên gia, đặc biệt quan trọng nhấn mạnh vấn đề về năng lực nâng cao của chuyên viên trong lĩnh vựcPHƯƠNG PHÁP “ HỎI CHUYÊN GIA ”
Source: https://dvn.com.vn
Category: Cẩm Nang