Một số kĩ thuật dạy học tích cực
Vận dụng một số kỹ thuật DH hiện đại theo hướng phát triển năng lực học sinh:
1. Kĩ thuật “KWLH”
– Kĩ thuật KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, xuất phát ban đầu vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc – hiểu. Theo kĩ thuật này, học sinh bắt đầu bằng việc công não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó, học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L .
Xuất phát từ kĩ thuật KWL, Ogle tiếp tục bổ sung thêm cột H ở sau cùng, với nội dung khuyến khích học sinh suy nghĩ, vận dụng vào quá trình học tập, vận dụng tiếp theo. Sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột L, các em có thể muốn tìm hiểu thêm về một số thông tin có liên quan. Các em sẽ nêu biện pháp để tìm thông tin mở rộng. Giáo viên cũng yêu cầu học sinh vận dụng vào thực tiễn, giải quyết các dạng bài tập như thế nào. Tất cả những ý tưởng, yêu cầu này sẽ được ghi nhận ở cột H.
– Mục đích sử dụng biểu đồ KWL: Kĩ thuật“KWL” phục vụ cho các mục đích sau:
• Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh trước khi học bài mới/chủ đề mới
• Đặt ra các mục tiêu cho hoạt động học tập
• Giúp học sinh tự giám sát, trải nghiệm quá trình học tập của mình
• Cho phép học sinh đánh giá quá trình học tập của mình.
• Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của mình vượt ra ngoài khuôn khổ bài mới/chủ đề mới, được liên hệ và vận dụng vào thực tiễn
• Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp tiếp cận về nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp dạy học,…
Tất cả những mục đích trên đều hướng tới phát triển các năng lực của HS.
– Các bước thực hiện kĩ thuật KWLH như thế nào?
Bước 1: Chọn bài học/chủ đề. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài học mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích, thời lượng phân bổ từ 2 tiết trở lên.
Bước 2: Tạo bảng KWLH. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng (hoặc trình chiếu trên Slide), đồng thời yêu cầu mỗi HS cũng kẻ một bảng theo mẫu của giáo viên (hình dưới).
Họ và tên học sinh:
Lớp:
K W L H
Bước 3: Đề nghị học sinh công não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến bài học/chủ đề. Học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K.
Một số lưu ý tại cột K:Giáo viên phải chuẩn bị câu hỏi để giúp học sinh công não. “Hãy nói những gì các em đã biết về ……”. Giáo viên cần khuyến khích học sinh giải thích, vì đôi khi những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường.
Trong trường hợp học sinh viết được rất ít ở cột K thì giáo viên cũng đừng lo lắng.
Bước 4: GV hãy hỏi tiếp HS xem các em muốn biết/tìm hiểu thêm những gì về bài học/chủ đề này. Học sinh sẽ ghi nhận câu hỏi vào cột W. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W.
Một số lưu ý tại cột W: Giáo viên hãy hỏi học sinh những câu hỏi tiếp nối và gợi mở theo chỉ dẫn. Nếu giáo viên chỉ nói: “Các em muốn biết thêm những gì về chủ đề này?” Đôi khi học sinh sẽ trả lời đơn giản là “không biết”, vì các em chưa có ý tưởng. Vì vậy, chúng ta hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau :“Em nghĩ mình sẽ biết thêm được những gì sau khi em học xong bài học/ chủ đề mới này?”
Giáo viên cũng có thể chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi:“Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có liên quan đến ý tưởng này không?”. Thành phần chính trong cột W là những mong muốn của học sinh.
Giáo viên phải làm thế nào để học sinh rất quan tâm điền mong muốn của mình vào cột W, nhưng phải có liên quan trực tiếp đến bài học.Nếu học sinh không điền mong muốn vào cột W, coi như chúng ta không thành công.
Lưu ý: Sau khi học sinh đã điền đầy đủ các thông tin vào cột K và cột W, giáo viên hãy thu phiếu lại để nghiên cứu những thông tin của các em đã viết ở cột K và W. Chúng ta cũng có thể tổ chức trao đổi ngay tại lớp.
Bước 5:Sau khi đã dạy xong bài học/chủ đề mới, giáo viên phát trả lại cho học sinh phiếu KWLH mà các em đã viết trước đó, yêu cầu học sinh đọc lại và tự điền câu trả lời mà các em tìm được (trong quá trình học tập) vào cột L.
Bước 6: Sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột L, học sinh có thể muốn tìm hiểu thêm các thông tin có liên quan, giáo viên hãy yêu cầu các em nêu biện pháp để tìm kiếm mở rộng. Giáo viên hãy khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc, yêu cầu học sinh vận dụng vào thực tiễn, giải quyết các dạng bài tập như thế nào. Tất cả những ý tưởng, yêu cầu này sẽ được ghi nhận ở cột H.
– Một số lưu ý tại cột L:Ngoài việc yêu cầu học sinh trả lời về kiến thức, giáo viên nên khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các em cảm thấy tâm đắc, thú vị. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng của các em. Ví dụ các em có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng trả lời cho câu hỏi ở cột W, với các ý tưởng các em thích, có thể đánh dấu sao.
Giáo viên cũng đề nghị học sinh tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời cho những câu hỏi ở cột W mà bài đọc không cung cấp câu trả lời, hoặc những câu hỏi mà học sinh đưa ra ở cột W không nằm trong phạm vi bài học/chủ đề mới. Vì, không phải tất cả các câu hỏi ở cột W đều được bài đọc trả lời hoàn chỉnh.
Bước 7: Tổ chức cho học sinh thảo luận những thông tin các em ghi nhận ở cột L (có thể kết hợp vận dụng kĩ thuật 321).
2. Kỹ thuật XYZ
XYZ là một kỹ thuật làm việc nhóm nhằm phát huy tính tích cực của mỗi thành viên trong nhóm, trong đó mỗi nhóm có X thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra Y ý kiến trong khoảng thời gian Z. Mô hình thông thường mỗi nhóm có 6 thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra 3 ý kiến trong khoảng thời gian 5 phút, do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635, thực hiện như sau:
• Dụng cụ chuẩn bị:Giấy bút cho các thành viên, nhóm.
• Thực hiện: GV chia nhóm, giao chủ đề cho nhóm, quy định số lượng ý tưởng và thời gian theo đúng quy tắc XYZ.Các thành viên trình bày ý kiến của mình, hoặc gởi ý kiến về cho thư ký tổng hợp, sau đó tiến hành đánh giá và lựa chọn.
• Lưu ý:Số thành viên trong nhóm nên tuân thủ đúng quy tắc để tạo tính tương đồng về thời gian, giáo viên quy định thời gian và theo dõi thời gian cụ thể.
• Ưu điểm:Có yêu cầu cụ thể nên buộc các thành viên đều phải làm việc.
• Hạn chế:Cần dành nhiều thời gian cho hoạt động nhóm, nhất là quá trình tổng hợp ý kiến và đánh giá ý kiến.
3. Kĩ thuật 321
321 là một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động sự tham gia tích cực của HS. Cách làm như sau:
• HS đ¬ược yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó (nội dung kiến thức về một chủ đề, phương pháp giáo viên dạy học, phương pháp báo cáo của một nhóm,….).
• Mỗi người/nhóm cần viết ra: 03 điều tốt – cá nhân/nhóm tâm đắc; 02 điều ch¬ưa tốt; 01 đề nghị lần sau cải tiến
• Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi.
4.Kỹ thuật tia chớp
Đây là kỹ thuật huy động sự tham gia của các thành viên đối với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong lớp học, thông qua việc các thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như chớp!) ý kiến của mình về câu hỏi hoặc tình trạng vấn đề.
Quy tắc thực hiện:
• Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị;
• Lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thoả thuận, ví dụ: Hiện tại tôi có hứng thú với chủ đề thảo luận không ?
• Mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình;
• Chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.
5.Lược đồ tư duy
Đây là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên bảng trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
Cách làm như sau:
• Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
• Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
• Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
• Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
6.Kỹ thuật “ổ bi”
Đây là một kỹ thuật dùng trong thảo luận nhóm, trong đó học sinh chia thành hai nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ bi và đối diện nhau để tạo điều kiện cho mỗi học sinh có thể nói chuyện với lần lượt các HS ở nhóm khác.
Cách thực hiện:
• Khi thảo luận, mỗi HS ở vòng trong sẽ trao đổi với HS đối diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác;
• Sau một ít phút thì HS vòng ngoài ngồi yên, HS vòng trong chuyển chỗ theo chiều kim đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình thành các nhóm đối tác mới.
7.Tranh luận ủng hộ – phản đối(tranh luận chia phe)
Đây là một kỹ thuật dùng trong thảo luận, trong đó đề cập về một chủ đề có chứa đựng xung đột. Những ý kiến khác nhau và những ý kiến đối lập được đưa ra tranh luận nhằm mục đích xem xét chủ đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Mục tiêu của tranh luận không phải là nhằm “đánh bại” ý kiến đối lập mà nhằm xem xét chủ đề dưới nhiều phương diện khác nhau.
Cách thực hiện:
• Các thành viên được chia thành hai nhóm theo hai hướng ý kiến đối lập nhau về một luận điểm cần tranh luận. Việc chia nhóm có thể theo nguyên tắc ngẫu nhiên hoặc theo nguyên vọng của các thành viên muốn đứng trong nhóm ủng hộ hay phản đối.
• Một nhóm cần thu thập những lập luận ủng hộ, còn nhóm đối lập thu thập những luận cứ phản đối đối với luận điểm tranh luận.
• Sau khi các nhóm đã thu thập luận cứ thì bắt đầu thảo luận thông qua đại diện của hai nhóm. Mỗi nhóm trình bày một lập luận của mình: Nhóm ủng hộ đưa ra một lập luận ủng hộ, tiếp đó nhóm phản đối đưa ra một ý kiến phản đối và cứ tiếp tục như vậy. Nếu mỗi nhóm nhỏ hơn 6 người thì không cần đại diện mà mọi thành viên có thể trình bày lập luận.
• Sau khi các lập luận đã đưa ra thì tiếp theolà giai đoạn thảo luận chung và đánh giá, kết luận thảo luận.
8.Kỹ thuật “bể cá”
Đây là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm HS ngồi giữa lớp và thảo luận với nhau, còn những HS khác trong lớp ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những HS thảo luận.
Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. HS tham gia nhóm quan sát có thể ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau.
Bảng câu hỏi cho những người quan sát
• Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không ?
• Họ có nói một cách dễ hiểu không ?
• Họ có để những người khác nói hay không ?
• Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không ?
• Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không ?
• Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không ?
• Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không ?
Bạn đang đọc: Một số kĩ thuật dạy học tích cực
Source: https://dvn.com.vn
Category: Cảm Nang