CHUẨN ĐOÁN NGÔI – THẾ – KIỂU THẾ CỦA THAI

CHUẨN ĐOÁN NGÔI – THẾ – KIỂU THẾ CỦA THAI

Chẩn đoán ngôi, thế, và kiểu thế của thai là một phần quan trọng trong quá trình chăm sóc thai kỳ và quản lý thai sản. Các khái niệm này được sử dụng để miêu tả vị trí của thai trong tử cung và cách thai định vị đối với cổ tử cung và hình thái của thai trong giai đoạn thai kỳ. Dưới đây là một số điểm cơ bản về chẩn đoán ngôi, thế, và kiểu thế của thai:

CHẨN ĐOÁN NGÔI – THẾ – KIỂU THẾ CỦA THAI

CHẨN ĐOÁN NGÔI – THẾ – KIỂU THẾ CỦA THAI

  1. Ngôi của thai: Ngôi là vị trí mà đỉnh của thai nằm trong tử cung. Có ba ngôi chính trong thai kỳ:
    • Ngôi đầu: Khi đỉnh thai nằm ở phía dưới của tử cung.
    • Ngôi má: Khi đỉnh thai nằm ở phía trên của tử cung.
    • Ngôi hông: Khi đỉnh thai nằm bên sườn của tử cung.
  2. Thế của thai: Thế của thai liên quan đến vị trí của các bộ phận của thai trong tử cung. Có hai thế chính trong thai kỳ:
    • Thế đứng: Khi bộ phận đầu hoặc chân của thai đang đối diện với cổ tử cung của phụ nữ.
    • Thế ngồi: Khi bộ phận đầu hoặc chân của thai đang đối diện với bên của cổ tử cung.
  3. Kiểu thế của thai: Kiểu thế của thai mô tả về cách thai định vị trong tử cung và hình thái của thai trong giai đoạn thai kỳ. Một số kiểu thế của thai bao gồm:
    • Thế xoắn: Thai nằm ngang và xoắn quanh trục của nó.
    • Thế lộn dạ: Thai nằm ngang nhưng không xoắn.
    • Thế nằm: Thai nằm đầu hoặc chân dài xuống dưới tử cung.
    • Thế ngồi chân: Thai nằm với một hoặc hai chân dài xuống dưới tử cung.
    • Thế tự nhiên: Thai nằm đầu xuống và chân nằm lên trên, sẵn sàng cho quá trình chuyển dạ.

Chẩn đoán ngôi, thế, và kiểu thế của thai thường được thực hiện bằng cách sử dụng các kỹ thuật siêu âm, xét nghiệm vật lý, và quan sát kỹ lưỡng từ bác sĩ chuyên khoa. Quá trình chẩn đoán này giúp bác sĩ đưa ra kế hoạch chăm sóc và quản lý thai sản phù hợp với từng trường hợp cụ thể.

Vào thời gian mở màn chuyển dạ, vị trí của thai nhi trong tử cung là yếu tố quan trọng trong tiên lượng cuộc đẻ. Gần đến ngày sinh hoặc trong khi chuyển dạ, thường thì thai nhi nằm dọc tử cung ( chiều của thai ), đầu xuống dưới ( ngôi thai ), chỏm cúi gập vào cổ ( mức độ cúi của thai ), chẩm nằm về phía trước trong tiểu khung ( kiểu thế ). Bốn thành tố : ngôi, chiều, độ cúi, thế và kiểu thế được sử dụng để diễn đạt tư thế của thai nhi so với người mẹ. Có khoảng chừng 5 % những trường hợp vị trí thai không theo hình thái thường thì và được gọi là ngôi thai không bình thường. Ngôi thai không bình thường đi kèm theo việc tăng rủi ro tiềm ẩn cho cả mẹ và thai nhi .

  1. ĐỊNH NGHĨA

1.1. Ngôi

1.1.1 Ngôi : là phần thai nhi trình diện trước eo trên trong khi có thai hoặc khi chuyển dạ .

Có hai loại ngôi cơ bản sau:

– Ngôi dọc : khi trục dọc của thai nhi cùng trục với trục tử cung của người mẹ. Có hai loại ngôi dọc :
+ Ngôi đầu : đầu thai nhi trình diện trước eo trên. Ngôi đầu được chia ra thành những loại : ngôi chỏm ( chẩm ), ngôi trán và ngôi mặt tuỳ thuộc vào mức độ cúi của đầu thai nhi .
+ Ngôi mông ( ngôi ngược ) : mông thai nhi trình diện trước eo trên. Ngôi mông được chia thành : ngôi mông trọn vẹn hay còn gọi là ngôi mông đủ ( khớp háng và gối gấp, mông trình diện ), ngôi mông không trọn vẹn, còn gọi là ngôi mông thiếu ( kiểu mông, kiểu đầu gối và kiểu chân ) .
– Ngôi ngang : khi trục dọc của thai nhi vuông góc hoặc bắt chéo với trục tử cung của người mẹ .
Ngoài ra còn hoàn toàn có thể gặp ngôi phức tạp .
1.1.2 Mốc của ngôi : mỗi loại ngôi thai có một điểm mốc, dựa vào điểm mốc đó để phân biệt những loại ngôi thai .
+ Ngôi chỏm : mốc là xương chẩm .
+ Ngôi mặt : mốc là mõm cằm .
+ Ngôi trán : mốc là gốc mũi .
+ Ngôi ngang : mốc là mõm vai .
+ Ngôi mông : mốc là đỉnh của xương cùng .

1.2. Độ cúi

Độ cúi thông thường của ngôi chỏm trong cuộc chuyển dạ là đầu cúi trọn vẹn, cằm của thai nhi gập sát vào phần trên của ngực để cho phần chẩm được trình diện trước. Nếu đầu không cúi hết sẽ đưa đến thực trạng ngôi trán và cổ ngửa ra sẽ đưa đến thực trạng ngôi mặt .

Hình 1. Độ cúi của đầu trong ngôi chỏm.

1.3. Thế

Thế là tương quan giữa điểm mốc của ngôi thai với bên phải hoặc bên trái của người mẹ hay nói rõ hơn là bên phải hoặc bên trái của khung chậu người mẹ. Vậy mỗi ngôi có hai thế: thế phải và thế trái.

1.4. Kiểu thế

Kiểu thế là mối đối sánh tương quan giữa điểm mốc của ngôi thai với vị trí trước-sau của khung chậu người mẹ. Như vậy phần trình diện của thai hoàn toàn có thể nằm ở phía Trước / Sau, bên Trái / Phải và tạo ra 6 kiểu thế lọt cho một ngôi thai .
Ví dụ ngôi chỏm, hoàn toàn có thể có những kiểu thế lọt sau đây, tính theo chiều kim đồng hồ đeo tay : chẩm trái trước, chẩm trái ngang, chẩm trái sau, chẩm phải sau, chẩm phải ngang, chẩm phải trước ;

Hình 2. Ngôi đầu – A.Chẩm trái trước B.Chẩm trái sau

Khi ngôi đã xuống eo giữa và eo dưới thì tuỳ theo chính sách đẻ và điểm mốc của ngôi so với khung chậu của người mẹ ta có2 kiểu thế sổ sau đây :
– Ngôi chỏm có hai kiểu thế sổ đó là chẩm trước và chẩm sau tuỳ theo chẩm ở phia xương mu hay phía xương cùng .
– Ngôi mặt có một kiểu thế sổ đó là cằm trước và một kiểu thế không sổ được đó là cằm sau .
– Ngôi mông có hai kiểu thế sổ đó là cùng ngang trái và cùng ngang phải .
– Ngôi trán và ngôi ngang không có kiểu thế sổ vì không lọt xuống eo dưới được .

  1. CHẨN ĐOÁN NGÔI, THẾ, KIỂU THẾ

Có nhiều chiêu thức thăm khám để chẩn đoán ngôi, thế và kiểu thế : Sờ nắn, phối hợp nghe tim thai, khám âm đạo. Trong những trường hợp khó hoàn toàn có thể vận dụng thêm những phương tiện đi lại cận lâm sàng như : X quang hoặc siêu âm .

2.1. Sờ nắn bụng

Để biết vị trí những phần của thai nhi, việc sờ nắn có vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán ngôi thế. Thai phụ nằm ngửa, hai chân chống để đùi tạo với mặt giường một góc 450, làm những cơ bụng chùng dễ nắn hơn. Áp dụng bốn thủ thuật của Léopold, người khám đứng bên phải sản phụ, nắn lần lượt từ thủ thuật 1, 2, 3 ; đến thủ thuật 4 thì xoay nhìn về phía chân của sản phụ .

Thủ thuật thứ nhất: nắn cực trên (đáy tử cung) để biết ở đáy tử cung là đầu hay là mông của thai nhi. Nếu sờ được một khối có chỗ rắn chỗ mềm, không tròn, ít di động đó là mông. Nếu sờ được một khối rắn chắc, tròn đều, dễ di động có dạng đá cục đó là đầu của thai nhi.

  • Thủ thuật thứ hai: nắn nhẹ nhàng nhưng sâu hai bên bụng, để xác định bên nào là lưng, bên nào là chi của thai nhi. Nếu sờ được một diện phẳng, rắn, đều đó là lưng; đối diện với lưng nắn thấy lổn nhổn những khối to nhỏ khác nhau di động dễ, có khi nắn mạnh thấy phần thai nhi mất đi rồi hiện lại đó là tay chân của thai nhi.

Thủ thuật thứ ba: Nắn cực dưới để biết có đầu hay mông, dựa vào các tính chất như nắn cực trên của tử cung. Nếu không sờ thấy gì ta nói hạ vị rỗng và xác định đó là trường hợp ngôi ngang.

Thủ thuật thứ bốn: Người khám xoay mặt về phía chân của sản phụ:

+ Dùng một bàn tay ấn sâu xuống bờ trên xương vệ, khi ngôi còn cao thì bàn tay người khám ấn xuống dễ .
+ Dùng hai bàn tay ấn dọc hai bên cực dưới của tử cung. Khi đầu chưa lọt hai bàn tay có hướng quy tụ vào nhau, khi đầu đã lọt hai bàn tay hướng ra ngoài không hề chạm vào nhau được .
Thủ thuật 1 Thủ thuật 2 Thủ thuật 3 Thủ thuật 4

Hinh 3. Khám 4 thủ thuật Leopold

 

2.2. Khám âm đạo

Trong lúc chuyển dạ, cổ tử cung đã mở một phần hoặc hàng loạt, khám âm đạo sẽ phân phối cho ta những yếu tố có ích giúp ta chẩn đoán đúng chuẩn ngôi – thế – kiểu thế .
Trong ngôi chỏm phải xác lập rãnh liên đỉnh và những thóp, nhất là thóp sau ở đâu so với những điểm mốc của khung chậu của người mẹ. Trong ngôi mặt cần xác lập cho được vị trí của cằm, trong ngôi mông cần xác lập cho được vị trí đỉnh xương cùng và hai ụ ngồi của thai nhi hoặc chân của thai nhi nếu là ngôi mông kiểu ngồi xổm .

2.3. Nghe tim thai

Tim thai được nghe rõ ở sống lưng của thai nhi, tự nó không giúp ta chẩn đoán được ngôi, thế, kiểu thế, nhưng giúp tương hỗ cho những tác dụng tìm thấy khi nắn bụng .
Ví dụ : Trong ngôi chỏm thì tim thai nghe rõ ở dưới rốn của bà mẹ và tim thai nghe rõ ở bên nào thì thế ở bên ấy, trong khi đó nếu là ngôi mông sẽ nghe rõ tim thai ở ngang hoặc phía trên rốn .

2.4. Siêu âm

Một giải pháp bảo đảm an toàn, đúng chuẩn, được sử dụng trong những trường hợp khó như sản phụ quá mập, thành bụng quá dày quá rắn chắc hoặc rau bám trước. Một đôi khi cũng phải sử dụng đến X quang để xác lập vị trí, tư thế hoặc hình thể của thai nhi ; tuy nhiên từ khi có siêu âm vai trò của X quang ngày càng ít .

BẢNG TÓM TẮT NGÔI THẾ KIỂU THẾ

NGÔIMỐCTHẾKIỂU THẾ–LỌTKIỂU THẾ SỔ
ChỏmXương ChẩmTrái

Phải

Chẩm trái trước
Chẩm trái ngang
Chẩm trái sau
Chẩm phải trước
Chẩm phải ngang
Chẩm phải sau
Chẩm trước

Chẩm sau

MôngĐỉnh xương cùngTrái

Phải

Cùng trái trước
Cùng trái sau
Cùng phải trước
Cùng phải sau
Cùng ngang trái

Cùng ngang phải

MặtCằmTrái

Phải

Cằm trái trước
Cằm trái ngang
Cằm trái sau
Cằm phải trước
Cằm phải ngang
Cằm phải sau
Cằm trước

TránGốc mũiTrái
Phải
Không cóKhông có kiểu thế sổ
NgangMỏm vaiTrái
Phải
Không cóKhông có kiểu thế sổ

 

Alternate Text Gọi ngay